ĐỒNG CẢM
MONDAY,
JANUARY 14, 2019-TRẦM THIÊN THU
Khả năng thấu hiểu cần
thiết để khả dĩ đồng cảm với người khác, nghĩa là có thể cảm xúc và xử sự như
người khác trong hoàn cảnh nào đó. Đồng cảm là tự đặt mình vào vị trí của người
khác để có thể hành xử như họ, Người Anh có thành ngữ “put yourself in somebody’s
shoes/place”. Đồng cảm không đồng nghĩa với thông cảm (cảm thông), ý nghĩa gần
giống nhau nhưng vẫn khác nhau. Đồng cảm liên quan khả năng THẤU HIỂU và CẢM NHẬN
được cảm xúc của người khác, còn thông cảm chỉ đơn giản là cảm thông với người
khác mà KHÔNG nhất thiết phải biết cảm giác của họ thế nào. Đồng cảm thâm thúy
hơn thông cảm.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy
rằng có những sự việc chúng ta tận mắt nhìn thấy nhưng lại không như chúng ta
suy luận. Đồng cảm rất cần thiết trong cuộc sống vì có liên quan lòng trắc ẩn
và lòng thương xót. Đó là dạng biết quan tâm, yêu thương và chia sẻ với người
khác.
Ngày xưa, Chúa Giêsu đã đồng
cảm với những con người đau khổ (thể lý và tinh thần) chứ không chỉ thông cảm với
họ, thế nên Ngài mới “chạnh lòng thương” họ – những con người khốn khổ mà Ngài
gặp ở bất cứ nơi nào (x. Mt 9:36; Mt 14:14; Mt 15:32; Mt 18:27; Mt 20:34; Mc
1:41; Mc 9:22; Lc 7:13), đến nỗi hạ mình xuống trần mặc xác phàm để chia vui sẻ
buồn với con người, nhưng Ngài cũng truyền dạy chúng ta phải yêu thương như người
Samari mà biết xót thương tha nhân (x. Lc 10:29-37), dù họ là ai.
Đồng cảm là thiện cử,
liên đới với các nhân đức và các đức tính khác, đặc biệt là đức ái. Như vậy,
người đồng cảm với tha nhân là người của Thiên Chúa, vì con người đó noi gương
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương (x. Is 49:10; Is 54:10), là Đấng từ bi
và nhân hậu (x. 2 Sb 30:9; Tv 103:1 & 8; Tv 111:4; Tv 145:8; Gc 5:11).
Thánh Phanxicô Xaviê lý
luận: “Cần đốt lên lửa yêu thương, bởi vì có yêu thương thì tự nhiên sẽ đối đãi
tốt với mọi người, luôn nói những lời yêu thương, và tâm hồn sẽ tự nhiên thu hoạch
được rất nhiều kết quả”. Thánh Gioan phân tích: “Ai nói rằng mình ở trong ánh
sáng mà lại ghét anh em mình thì vẫn còn ở trong bóng tối” (1 Ga 2:9).
ĐỒNG
CẢM LÀ YÊU THƯƠNG
Không thông cảm không thể
đồng cảm, không đồng cảm không thể quý mến, không quý mến không thể yêu thương.
Chân thành bộc bạch, ngôn sứ Isaia cho biết: “Vì lòng mến Sion, tôi sẽ không
nín lặng, vì lòng mến Giêrusalem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công
chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc” (Is
62:1). Rồi ông cho biết rằng “muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính, mọi
đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi bằng tên mới
là tên miệng Đức Chúa đặt cho” (Is 62:2). Sự chuyển hóa kỳ diệu lắm, bởi vì
Thiên Chúa đã thay tên đổi họ để người ta trở thành con người hoàn toàn mới.
Ôi, thật là hạnh phúc vì
được chính Thiên Chúa đồng cảm số phận bọt bèo mà thương xót, đồng thời còn được
là “ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, là mũ triều thiên vương giả
Thiên Chúa cầm ở tay” (Is 62:3). Vì thế, chẳng ai còn dám tru tréo là “đồ bị ruồng
bỏ!”, ngay cả xứ sở cũng không còn bị tiếng là “phận bạc duyên đơn”. Nhưng lại
được ưu ái gọi: “Ái khanh lòng Ta hỡi! Xứ sở ngươi nức tiếng là duyên thắm chỉ
hồng” (Is 62:4). Tại sao? Vì người đó được Đức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập
hôn ước cùng xứ sở người đó. Kinh thánh ví “như tài trai sánh duyên cùng thục nữ”
khi Đấng tác tạo sẽ cưới người đó về, và “như cô dâu là niềm vui cho chú rể”,
người đó cũng là niềm vui cho Thiên Chúa (Is 62:5).
Thế thì chắc chắn chẳng
còn niềm vui nào lớn lao hơn và lên tới tột đỉnh như vậy. Như vậy làm sao im lặng
được? Do đó, chúng ta phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng
Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua
ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển,
cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3). Đó là kinh nghiệm minh nhiên
được Thánh Vịnh gia chia sẻ.
Con người có chúc tụng và
tôn vinh như vậy cũng chưa đủ, bởi vì lời nói phải đi đôi với việc làm. Thánh Vịnh
gia kêu gọi: “Hãy dâng Chúa, hỡi các dân các nước, dâng Chúa quyền lực và vinh
quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền
đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ
trước Thánh Nhan” (Tv 96:7-9). Sau đó còn phải loan truyền cho người khác cùng
hưởng niềm vui có Chúa: “Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết
lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay
thẳng” (Tv 96:10). Chia sẻ là một dạng đồng cảm, vì thấy người khác thiếu thốn
nên muốn chia sẻ với tình yêu thương.
Là Kitô hữu, ai cũng biết
rằng làm bất cứ việc gì đều phải nhờ ơn Chúa – dù là điều nhỏ bé, bởi vì chính
Đức Kitô đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Nhưng có nhiều loại ơn, không phải muốn là được, mà mỗi người được nhận theo khả
năng của mình: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều
việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau,
nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra
nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12:4-7). Vấn đề là “vì công ích”
(ích lợi chung của cộng đồng). Vì thế, khi chúng ta được ơn này mà người kia
không có thì đừng tưởng mình “ngon” – giỏi hơn, siêu hơn, khéo hơn,.. Chúa tác
tạo nên chúng ta nên Ngài biết ai có khả năng gì. Nhưng nhận được ơn gì đó là để
phục vụ chứ không phải để hãnh diện mà kiêu căng, trách nhiệm tỷ lệ thuận với số
ơn nhận được: “Hễ ai đã ĐƯỢC CHO nhiều thì sẽ BỊ ĐÒI nhiều, và ai ĐƯỢC GIAO PHÓ
nhiều thì sẽ BỊ ĐÒI HỎI nhiều hơn” (Lc 12:48). Đừng đùa đấy! Và ngược lại, nếu
mình không được ơn mà người khác được thì đừng ghen tỵ mà sinh lòng đố kỵ. Phải
tỉnh táo để có thể khiêm nhường mà đồng cảm.
Rất rạch ròi với cách
phân tích của Thánh Phaolô: “Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để
giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được
Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho
những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn
nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ
tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ” (1 Cr 12:8-10). Tất
cả đồng quy về một mối: “Nhưng chính THẦN KHÍ DUY NHẤT ấy làm ra tất cả những
điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người” (1 Cr
12:11).
Như vậy thì chẳng ai có
lý do gì để mà vênh vang tự đắc hoặc biện hộ cho mình. Người nào cũng có bổn phận
riêng theo ơn mình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Mười nén, năm nén hay một nén
không là “cớ” để kèn cựa nhau, mà là để nâng đỡ nhau, thông cảm và xót thương
nhau theo gương Đại Sư Giêsu. Thánh Phaolô cảnh báo: “Đừng ai viện cớ ‘khiêm
nhường’ và ‘sùng kính các thiên thần’ mà làm cho anh em mất phần thưởng chiến
thắng; họ chìm đắm trong những thị kiến của mình, vênh váo vì những suy tưởng
theo lối người phàm” (Cl 2:18). Thật đáng quan ngại lắm!
ĐỒNG CẢM LÀ QUÊN MÌNH
Đồng cảm là yêu thương,
yêu thương là quên mình – dấn thân, không quên mình chắc chắn không thể đồng cảm
để có thể quên mình hoặc dấn thân mà phục vụ. Phục vụ ai? Phục vụ Thiên Chúa,
phục vụ Giáo hội, và phục vụ tha nhân. Khi dạy về bài học phục vụ, chính Chúa
Giêsu xác định: “Con Người đến KHÔNG phải để ĐƯỢC người ta phục vụ, nhưng là để
PHỤC VỤ và HIẾN DÂNG MẠNG SỐNG làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Phục vụ là
chấp nhận “chịu thiệt”, vậy mới khó, chứ ai cũng muốn “chỉ tay năm ngón” thì mọi
thứ đảo lộn hết trơn. Người có tài điều khiển khéo léo (cũng ổn), người kém tài
điều khiển vụng về (gây rối), nhưng ai cũng muốn chứng tỏ “bản lĩnh” (thật ra
là “cái tôi”) nên khoái “ra lệnh”, thích “sai bảo”. Ai cũng muốn mình nổi bật
(chứ chẳng “nổi trội” chi), không muốn “quên mình” chi cả. Phiền toái chẳng ngại
phiền hà!
Trình thuật Ga 2:1-12 nói
về một tiệc cưới tại Cana, miền Galilê. Hôm đó, Đức Giêsu và Thân Mẫu được mời
dự tiệc cưới, các môn đệ cũng được mời. Tiệc đang “nóng”, khách đang “hưng phấn”
thì rượu bia hết trơn. Thế thì “căng” rồi đây! Đi mua thì không kịp, vì thời đó
phải đi bộ xa lắm, phương tiện liên lạc hiếm hoi. Nếu như ngày nay, người ta chỉ
cần phóng xe đi trong vòng vài phút hoặc nhấn nút rồi a-lô là xong ngay, khỏi cần
tính toán chi cho nhức đầu. Nhưng cái khó ló cái khôn, xui cái này may cái
khác.
Nghe nói đám tiệc thiếu
rượu đãi khách, Đức Mẹ đồng cảm với gia chủ và cảm thấy thương họ, thế nên Mẹ
liền rỉ tai Con Trai: “Họ hết rượu rồi, con ơi!”. Con Trai thản nhiên đáp: “Mẹ
ơi, chuyện đó can gì đến mẹ con mình? Giờ của con chưa đến”. Nghe là nghe vậy
thôi, chứ Mẹ biết Con Trai thế nào, và Mẹ vẫn đi nói với gia nhân: “Con Trai
tôi bảo gì thì các anh cứ việc làm theo nhé!”. Con nói gì thì nói, Mẹ cứ bảo
người ta theo ý Mẹ. Điều đó chứng tỏ Mẹ Con rất đồng cảm và hiểu rõ lòng nhau,
luôn “ăn ý” với nhau, đồng thời cũng chứng tỏ đức tin của Mẹ rất mạnh mẽ và vững
vàng. Chắc chắn Mẹ biết Con Trai sẽ giúp họ nên mới đi “nói nhỏ” với người nấu
đám hôm đó. Trên cả tuyệt vời!
Thánh Gioan cho biết rằng
ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi
chum chứa được khoảng 80 hoặc 120 lít nước. Nói “không liên can” nhưng Đức
Giêsu vẫn ra phía sau và bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” (Ga 2:7).
Được Đức Mẹ “thông báo” trước, họ liền lấy nước lã đổ đầy tới miệng các chum. Rồi
Ngài lại nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc”. Họ cấp tốc
múc nước trong chum đem cho người quản tiệc mà cũng không hề thắc mắc chi cả. Họ
có vẻ thản nhiên, nhưng điều bất ngờ xảy ra...
Thật vậy, khi người quản
tiệc nếm thử thì thấy là rượu. Lạ dữ nghen! Rượu ở đâu ra mà ngon chi lạ! Tất cả
các chum đổ đầy nước mà giờ hoá thành rượu. Lạ lùng và kỳ diệu ghê đi! Không ai
biết rượu từ đâu ra, chỉ có gia nhân đã múc nước thì biết. Mà không phải rượu
thường, đó lại là thứ rượu hảo hạng, vừa ngon và vừa mạnh. Ôi chao, cứ đổ đồng
mỗi chum là 100 lít, vị chi là 600 lít. Dân bán rượu chắc gì trữ nhiều rượu như
thế? Lượng rượu này vừa bán vừa cho chứ uống gì hết! Ông quản tiệc “đau cái điền”
vì chả hiểu ất giáp chi ráo trọi. Rồi ông gọi tân lang lại và nói: “Này, ai
cũng thết rượu ngon trước, khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn
anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ” (Ga 2:10). Ông ta không thể hiểu
nổi, còn chú rể cũng lắc đầu, bó tay, thế nhưng chắc hẳn anh là chàng rể may mắn
và hạnh phúc nhất thế gian này.
Và Thánh sử Gioan cho biết
rằng đây là DẤU LẠ ĐẦU TIÊN mà Đức Giêsu đã làm để bày tỏ vinh quang Thiên
Chúa. Các môn đệ quá đỗi ngạc nhiên, nhưng nhờ vậy mà các đệ tử đã tin vào Đại
Sư của mình. Thật là hạnh phúc thay!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con nhạy cảm qua việc đồng
cảm để yêu mến Ngài bằng cách thật lòng yêu thương mọi người, nhất là những con
người khốn khổ nhất, nhờ vậy mà chúng con xứng đáng được Ngài xót thương. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ
của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét