Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2020

KHÓC và NGÃ


KHÓC  và  NGÃ
Tuesday, June 23, 2020



Chắc chắn rằng “khóc” và “ngã” là hai động từ không hề thú vị, không ai muốn như vậy trong cuộc sống, vì cả hai động từ đó đều có chung một xuất phát là đau khổ. Nói về đời thường rất ư bình thường thì cũng chẳng ai không khóc và không ngã, nói về đời sống tâm linh thì càng “dữ dội” hơn vì tất cả con người đều yếu đuối và lần mò về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha. Đó là con đường nên thánh của đại đa số phàm nhân.
Xét về tâm linh, “khóc” và “ngã” tuy là hai dạng khác nhau nhưng vẫn chung hành trình: sa ngã è đau khổ è ăn năn. Phêrô nên thánh nhờ Khóc Lóc, Phaolô nên thánh nhờ Ngã Ngựa. Nỗi buồn khiến người ta nhớ đời, đau khổ khiến người ta nên khôn ngoan.
Quả thật, cả hai vị được Thiên Chúa đặc cách, và họ trở nên nền tảng vững chắc chống đỡ Giáo Hội. Thánh Phêrô – thuộc Nhóm Mười Hai – được Chúa Giêsu trao “chìa khóa Nước Trời” với cương vị giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội, còn Thánh Phaolô – không thuộc Nhóm Mười Hai – được chọn làm Tông đồ của Dân ngoại. Họ được ví như Đồng Trụ và Thạch Bàn của Giáo Hội, đến nỗi ma quỷ cũng phải chịu thua, không phá nổi.
Chúng ta không thể lý luận theo lý lẽ của phàm nhân đối với Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Một ngư phủ Simon cương trực, thẳng thắn thật thà, nhưng cũng “to gan” vì dám chối bỏ Thầy mình ngay trong lúc dầu sôi lửa bỏng, và thậm chí ông còn bị Chúa Giêsu nguyền rủa là Satan. (Mt 16:23) Thế nhưng một Phêrô-hèn-nhát đã đột biến thành một Phêrô-can-đảm và rồi chịu đóng đinh ngược vì Thầy Giêsu. Tương tự, Saolê giỏi giang nhưng hung tàn và bạo ngược, quyết giết hết những kẻ nào dám tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, thậm chí ông còn chủ trì trong cuộc sát hại Phó tế Stêphanô. (Cv 7:58) Và rồi một Saolê-độc-ác đó đã trở thành một Phaolô-nhiệt-thành rao giảng về Đức Kitô chịu chết và phục sinh.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại và lên trời, người ta vẫn cố chấp, không tin, và lại tìm cớ bách hại các Kitô hữu. Từ cổ chí kim, bất cứ ai theo Chúa Giêsu cũng phải chịu nhiều đau khổ, cách này hoặc cách khác, chứ chẳng ai được thảnh thơi an nhàn.
Sách Công Vụ cho biết thực tế đó: “Thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan. Thấy việc đó làm vừa lòng người Do Thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phêrô nữa. Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men. Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra cho dân chúng. Đang khi ông Phêrô bị giam giữ như thế, Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.” (Cv 12:1-5)
Có một phép lạ nhãn tiền là ông Phêrô được cứu thoát: “Trong đêm trước ngày bị vua Hêrôđê đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa hai người lính và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo ông đi. Xiềng xích liền tuột khỏi tay ông. Thiên sứ bảo ông thắt lưng và xỏ dép. Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông khoác áo choàng vào và đi theo thiên sứ. Ông liền theo ra mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến.” (Cv 12:6-9) Sự kiện xảy ra rất ngoạn mục, tưởng chừng chỉ có trong tiểu thuyết hoặc phim ảnh viễn tưởng, nhưng đó sự thật minh nhiên. Chính ông Phêrô cũng không hề biết mình tỉnh hay mơ sau khi được cứu. Quá đỗi kỳ lạ!
Kinh Thánh kể lại mà cảm thấy như một cảnh trong bộ phim hành động: Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông Phêrô tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi. Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn: “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê và khỏi mọi điều dân Do Thái mong muốn tôi phải chịu.” (Cv 12:11) Thực tế thật trăm phần trăm chứ không hề là chiêm bao, ảo mộng hoặc hư cấu. Vô cùng kỳ diệu, không thể hiểu nổi. Quả thật, “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1:37)
Tục ngữ Việt Nam có câu dạy về lòng biết ơn: “Ăn cây nào rào cây nấy.” Đó là quy luật tất yếu ở đời. Biết ơn là người có giáo dưỡng. Tương tự, về phương diện tâm linh cũng không khác. Tuy nhiên, chúng ta lãnh nhận Ơn Chúa quá nhiều mà có lẽ ít khi biết tạ ơn. Thánh Vịnh gia nêu gương sáng qua lời tự nhủ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.” (Tv 34:2-5) Sách Huấn Ca dạy: “Tỏ lòng biết ơn là dâng bột tinh hảo, làm việc bố thí là dâng lễ ngợi khen.” (Hc 35:2)
Mặc dù nhân loại vô ân bạc nghĩa, nhưng Thiên Chúa vẫn đại lượng, luôn giàu lòng thương xót, đặc biệt là Ngài không làm ngơ những người thành tâm tin yêu Ngài: “Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người.” (Tv 34:6-8) Với kinh nghiệm sống tâm linh, Thánh Vịnh gia chia sẻ và mời gọi: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9) Thảo nào người xưa đã minh định: “Vô tri bất mộ.”

Kinh nghiệm có giá trị rất cao. Nước mắt nóng hổi đủ cuốn trôi tội tày trời của Phêrô, và cú ngã ngựa đáng đời đã khiến Phaolô tỉnh giấc mông hão huyền. Kinh nghiệm độc nhất vô nhị đó, và cũng là phép lạ nhãn tiền, đã giúp Phaolô trở nên trưởng thành tâm linh, và rồi ông chân thành tâm sự: “Tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày Ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.” (2 Tm 4:6-8) Ước gì mỗi tín nhân chúng ta cũng có thể xác định như Thánh Phaolô, nhất là khi sắp rời cõi đời này. Không lưu luyến, không hối tiếc, nhưng sẵn sàng và tràn trề hy vọng.
Nói được như vậy bởi vì Thánh Phaolô luôn hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa: “Có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (2 Tm 4:17-18)
Thánh Phaolô là người uyên thâm, học sâu hiểu rộng, thế nên các thư của ông là kho tàng về đời sống tâm linh, chúng ta có thể thấy mọi trường hợp mà hằng ngày chúng ta thường gặp. Ông giỏi về kiến thức đời thường và giỏi cả kiến thức tâm linh nữa, đồng thời cũng như một tâm lý gia vậy. Trước thì giỏi quậy, nay thì giỏi dạy.
Đời là bể khổ – cả đời thường và tâm linh, không khổ không là đời. Thật vậy, cuộc sống là cuộc chiến không thể đàm phán với địch quân, lúc nào cũng giới nghiêm mà không có đình chiến. Khổ thật, mà khổ nhất là chính mình – kẻ nội gián. Chính Thánh Phaolô cũng đã than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm.” (Rm 7:19) Đúng là chán thật, nhưng không thể buông xuôi!
Con người là thế, do đó mà phải không ngừng nỗ lực “từ bỏ chính mình” để có thể “vác thập giá” bước theo Đức Giêsu Kitô. Vấn đề là có muốn hay không, chứ vác thập giá chắc chắn “oải” lắm, hiếm khi ngon trớn, thường thì cứ phải kéo lê, thậm chí có lúc còn ngã quỵ,… Mệt mỏi vô cùng! Chúa biết lắm chứ, bởi vì Ngài “thấu suốt mọi sự.” (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 4:17d; Et 5:1a; 2 Mcb 6:30; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20) Thiên Chúa toàn năng luôn quan phòng và tiền định mọi thứ, ngay cả từng sợi tóc trên đầu mỗi người chúng ta cũng đã được Ngài đếm cả rồi. (Mt 10:30) Đừng để nỗi lo sợ làm cho mình hoảng loạn!
Nhờ đau khổ mà cả hai lão tướng Phêrô và Phaolô đã đổi đời. Thật vậy, chính đau khổ mới làm cho người ta thành nhân – cả đời thường và tâm linh. Đau khổ vô giá, thế nên chính Đức Kitô đã chịu đau khổ tới tột cùng để làm gương cho chúng ta. Ngài đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, Ngài chết để chúng ta được sống viên mãn. Để có thể chịu nỗi đau khổ, người ta phải có niềm tin lớn mạnh. Chính đức tin là “linh khí” giúp chúng ta ngoan cường chiến đấu: “Điều làm cho chúng ta thắng được thế gian là lòng tin của chúng ta.” (1 Ga 5:4) Quả thật, với ít nhiều kinh nghiệm thì chúng ta cũng khả dĩ nhận biết được như thế.
Việc tuyên tín của Thánh Phêrô được mô tả qua trình thuật Mt 16:13-19. Chính Chúa Giêsu muốn xác định đức tin của ông để tín giao đại sự cho ông, muốn ông “lập công” chứ Ngài biết hết rồi. Không chỉ như vậy, Ngài còn đòi hỏi tình yêu chân thành của ông nên đã ba lần hỏi ông có yêu mến Ngài hay không. (x. Ga 21:15-19) TIN và YÊU là hai “luật buộc” để làm “cột trụ” trong đời sống tâm linh của mỗi Kitô hữu. Có thể ví như hai ánh mắt, hoặc như nhánh ghép thành thập giá và vác bằng cả đôi vai.
Một hôm, khi đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?” Ngài hỏi thì hỏi thế thôi, chứ Ngài thừa biết cả rồi. Vả lại, Ngài hỏi là để chúng ta tự xác định niềm tin của chính mình. Sau khi nghe Sư Phụ hỏi, các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.” Chín người, mười ý. Cách nhìn và cách hiểu không ai giống ai.
Chúa Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Với bản tính cương trực, ông Phêrô thưa ngay: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Ngài nói với ông: “Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” Rồi Ngài nói với ông: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Ngay lúc nhận “chìa khóa” của Nước Trời, ông Phêrô trở thành giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội. Ngư phủ Phêrô diễm phúc lắm, nhưng trọng trách cũng nặng nề lắm!
Cuộc chiến nào cũng cam go, điều quan trọng là sức mạnh tinh thần. Thánh Ephraem cho biết: “Trong lúc anh em chiến đấu chống lại ma quỷ, các thiên thần và Chúa của các thiên thần đang nhìn xem anh em.” Ý thức như vậy sẽ giúp thêm tin yêu, và dù chỉ là hạt bụi nhỏ bé cũng vẫn đủ sức chiến thắng như David đánh bại gã không lồ ngày xưa. Thật vậy, Chúa đã xác định với Phaolô: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” (2 Cr 12:9)

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết KHÓC mỗi khi NGÃ, xin thêm sức mạnh để có thể đứng dậy ngay, quyết tâm chiến đấu bằng lưỡi gươm đức tin và ngọn lửa đức mến, xin đừng bỏ mặc chúng con giữa chiến trường gian trần này. Lạy Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, xin nguyện giúp cầu thay và động viên chúng con trong từng giây phút. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét