Quan Niệm Phúc Ðức
29
Tháng Tư 2020-cdtgiao-Phạm Văn Bản
Mỗi khi tai qua nạn khỏi
hay gặp một điều lành, chúng ta đều nhắc tới phúc đức: “Nhờ phúc ông bà nên tôi
vừa thoát nạn.” “Nhờ phúc nhà nên cháu vừa thi đỗ.” “Cầu phúc tổ tiên cho được
mẹ tròn con vuông.”
Nhiều ca dao tục ngữ cũng
nhắc tới phúc đức, và khuyên chúng ta gây phúc lập đức, “Có phúc làm quan.”
“Tiên tích đức hậu tầm long.” “May phúc ba đời để lại.” Mừng một sự kiện tốt đẹp
bất ngờ chúng ta buột miệng, “May phúc!” Trái lại lời nguyền rủa nặng nề vẫn là
câu, “Đồ vô phúc!”
Làm Phúc: Phúc là điều tốt
lành cho cuộc sống con người. Con người vừa được hưởng phúc, lại vừa có thể tạo
ra phúc. Đang khi đức là kết quả của việc tạo phúc, mà cũng là nguyên ủy của việc
hưởng phúc.
Chủ đích của việc phúc đức,
cũng như linh huấn của Chánh Thuyết Tiên Rồng, là vừa làm cho chính mình được hạnh
phúc, lại vừa gíup cho mọi người cũng được hưởng hạnh phúc với mình. Do đó,
phúc đức là vừa do tâm thành thiện ý, lại vừa do kết qủa công việc sinh lợi cho
người khác.
Hưởng Đức: Khi làm việc
phúc đức, chẳng những chúng ta giúp ích cho người, mà chính chúng ta cũng được
hưởng nhờ. Làm phúc thì được hưởng đức – Lợi vật chất thì do thu góp, mà ích
phúc đức thì do san sẻ.
Chúng ta còn có thể lưu
truyền phúc đức đến người khác. Do đó, con cháu được hưởng nhờ phúc đức của Tổ
Tiên để lại.
Phúc Phận: Ngòai phúc đức
Tổ Tiên, con người cũng hưởng phúc do Trời ban. Nhưng Phúc Trời lại khác nhau
nơi từng con người.
Tầm độ hưởng nhờ Ơn Trời
và Phúc Đức Tổ Tiên chính là phúc phận của mỗi con người. Mọi sự xảy đến trong
một đời người đều do phúc phận. Cũng do phúc phận mà chúng ta có hay không, được
hay mất bất cứ sự gì trên đời.
Việc phúc đức lại có thể
làm thay đổi phúc phận. Nhờ làm nhiều phúc đức, do tâm thành và do kết qủa ơn ích,
số phận chúng ta trở thành tốt đẹp hơn, tai qua nạn khỏi, phúc thọ gia tăng.
Tùy duyên không có nghĩa là buông xuôi chấp nhận, mà để chờ duyên là chúng ta
phải luôn chuẩn bị, phải tạo điều kiện, phải cố gắng làm việc phúc đức.
Thông thường chữ “Đức” có
ý nghĩa đạo đức, nhân đức, ân đức, phúc đức. Chữ “Đức” còn có nghĩa là cái “Dụng
của Đạo.” Chúng ta biết, đặc biệt theo triết lý Lão Học, đạo là cái thể của Trời
Đất, còn đức là lúc đạo hoạt động, là cái dụng của đạo. Chúng ta có thể nói đạo
là “tạo hóa” ở thể tĩnh, còn đức là “tạo hóa” ở thể động, hoạt động, là “thần lực”
dựng nên vũ trụ, con người. Đức là sức mạnh của Trời! Chữ đức được Tổ Tiên ghi
khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lữ, “Mặt Trời 14 Tia.” (Thập tứ nhất tâm: 14 người
mà một lòng).
Bởi thế Phúc Đức là quan
niệm gắn liền với tâm hồn và cuộc sống của người dân Việt chúng ta, chẳng những
đã ăn sâu trong tư tưởng, trong tâm hồn mà lại còn bộc phát ra trong cuộc sống
hàng ngày của chúng ta, và để giúp cho chúng ta sống “hạnh phúc.” Quan niệm
Phúc Đức đã giúp cho toàn thể Dân Việt sống hạnh phúc qua mấy ngàn năm mà đã giữ
trọn vẹn tâm hồn con người để làm người.
Khi nói tới phúc đức,
chúng ta luôn nhớ tới Tổ Tiên Ông Bà là người khuất núi, dĩ nhiên không quên
cám ơn Trời Phật, nhưng chúng ta nhận được ơn Trời Phật cũng là nhờ hồng phúc của
Tổ Tiên Ông Bà.
Trong cuộc sống hàng
ngày, mỗi khi làm việc lành điều thiện, chúng ta ý thức rằng không những “mình
làm mình hưởng,” mà còn dành để phúc đức đó cho cả dòng họ con cháu hưởng nhờ,
“Làm lành để đức cho con.” “Quang tiền dư hậu.” “Tiên tích đức hậu tầm long.”
Quan niệm phúc đức đã
giúp cho con người sống thật trong hiện tại, mà còn liên kết với qúa khứ vị
lai, hầu sống trọn vẹn kiếp người. Do đó chúng ta có thể nói phúc đức là quan
niệm sống hữu thần sâu xa, mà gần gũi với con người nhất. Quan niệm này là câu
giải đáp cho họa duy vật vô thần thời nay, mà còn giúp chúng ta thoát ách duy
tâm duy linh, đang làm con người coi thường thực tại hiện hữu của cuộc sống.
Bởi thế quan niệm phúc đức
của Tổ Tiên là căn bản tâm linh cho đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước ngày nay. Trong
cuộc chiến đấu, phúc đức là tiêu chuẩn để phân định rõ ràng giữa chính nghĩa
hay gian tà. Tiêu chuẩn phúc đức để kiểm chứng những việc chúng ta làm là cứu
dân cứu nước, hay cướp nước hại dân như Cộng Sản mà thôi.
Trong lịch sử cận đại,
nhiều người ra hải ngoại cũng có thể tính chuyện cứu nước thoát ách Thực Dân
Pháp, nhưng vì không xét vấn đề phúc đức như Tổ Tiên linh huấn, nên đã vô tình
hay cố ý chấp nhận chủ thuyết vong bản ngoại lai. Thay vì khi trở về cứu dân cứu
nước, thì thực tế họ đã làm những việc bán nước hại dân, bởi không phân biệt ý
niệm chính – tà.
Giờ đây, nếu chúng ta
không xét đến phúc đức ắt cũng chẳng khác Hồ Chí Minh năm xưa, cũng du nhập chủ
thuyết Mác – Lê, cũng là đoàn quân viễn chính trở về cướp nước, cướp chính quyền,
rồi cũng tranh giành quyền lợi, cũng đàn áp lương dân, và có khi còn gieo tai họa
nặng nề hơn giặc nước hiện tại.
Có người hỏi rằng, trong
chiến tranh chém giết, trong chính trị mưu mô mà chúng ta bàn chuyện phúc đức
sao?
Thưa rằng nếu bắt buộc
chúng ta phải chiến đấu để cứu người, giải cứu dân lành thì việc chém giết đó
là việc làm phúc đức. Phúc đức không phải để tránh tác hại, dĩ nhiên chúng ta cần
tránh chém giết thì càng tốt. Nhưng khi không thể đặng đừng, chẳng những chúng
ta không được quyền tránh, mà còn có bổn phận dấn thân cứu người vô tội. Việc
giết giặc cứu người là việc làm phúc đức, và càng xả thân trừ ác thì phúc đức lại
càng có nhiều.
Vì nguyên ủy của Chánh
Nghĩa là Làm Việc Phúc Đức, mưu cầu hạnh phúc cho con người. Ai làm hại Con Người
thì dầu đạt được quyền uy hay giàu sang tột bực như tập đòan Cộng Sản cầm quyền
hiện nay thì vẫn không có Chính Nghĩa.
Trong đời sống con người
Chính Nghĩa là quyết tâm đánh giặc cứu người. Và giặc là tất cả những ai hay những
gì làm suy hại hạnh phúc của con người và xã hội lòai người.
Mặc dù chính trị có mưu
mô, chiến tranh có chém giết, nhưng quyền biến, mưu lược của chính trị là để củng
cố xã hội, để trợ giúp cho cuộc sống của con người. Quân sự có máu lửa, chiến
tranh tàn phá, nhưng Tổ Tiên cho rằng đó không phải là hiếu sát hay cưỡng bức…
mà là đánh giặc nhằm giải cứu người vô tội.
Trong đại cuộc Giúp Dân Cứu
Nước, chúng ta ý thức rõ ràng rằng mình đang đi cứu người, cứu anh em, cứu thân
nhân, cứu nhau mà hợp thành đoàn quân nhân nghĩa đi giải cứu cả một dân tộc
đang bị giam hãm đọa đày.
Trong lúc giải cứu dân tộc,
chắc chắn có sự xô sát và tùy theo trường hợp mạnh yếu chúng ta lường trước tầm
quan trọng trong việc cứu người mà chấp nhận thực thi. Trong đại cuộc Giúp Dân
Cứu Nước ngày nay, bọn ác nhân cố bám vào quyền lợi riêng tư phe đảng thì tranh
đấu sống còn là chuyện khó tránh. Khi đó kẻ ác thì đền tội, và người thiện thì
thêm phần phúc đức.
Ðại cuộc Giúp Dân Cứu Nước
là việc làm phúc đức hết sức to lớn, mà chúng ta khó thể tưởng tượng, như lời Tổ
Tiên linh huấn, “Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người!”
Dù cho có bỏ công của ra xây cất chín cảnh chùa cho tăng ni tu luyện, thì cũng
không bằng làm phúc cứu cho một người.
Thế vậy mà giờ đây chúng
ta cứu cả trăm triệu con người, khi bỏ công bỏ của ra toan tính và sẵn sàng hy
sinh cả tính mạng, dành để mọi khả năng để chuẩn bị tổ chức chu đáo cho đại cuộc
dựng nước, thì phải nhận chân rằng đó là “Đại Phúc!”
Việc làm đại phúc đó, chẳng
những chúng ta được hưởng, mà như Tổ Tiên đã nói, gia đình giòng họ con cháu và
toàn thể dân tộc cũng được hưởng nhờ, ngay cả những người khuất núi và con cháu
chưa sinh ra: “Quang tiền dư hậu.”
Do đó không phút giây
dành để cho quê hương dân tộc là uổng phí, vì chính lúc chúng ta mưu cầu giải cứu
lương dân, như Tổ Tiên xác quyết, “Ðại phúc đó dân tộc cũng được hưởng nhờ!”
Sở dĩ đã gần thế kỷ qua,
Dân Nước chưa được giải cứu là vì chúng ta chưa có phúc đức, chưa đủ phúc đức,
chưa góp thành đại phúc.
Khi chúng ta quan tâm giải
cứu đồng bào, hay nói đơn giản hơn, khi nhớ tới đồng đội bị bắn ngã gục, tù đày
cải tạo, hay lời trăn trối của người thân, lời thề khi bỏ nước ra đi. Và khi
chúng ta nhớ tới đồng bào rên xiết dưới ách giặc Cộng mà quyết tâm hành động cứu
giúp thì đó phải là đại phúc. Và khi đóng góp đủ đại phúc thì tất nhiên chúng
ta sẽ cứu được dân nước.
Con người phàm tục như
chúng ta mà còn biết quặn đau trước nỗi thống khổ của dân tộc mình, thì không
lý Ðức Quốc Tổ và Hồn Thiêng Sông Núi hay Tổ Tiên Ông Bà lại làm ngơ, phó mặc
con cháu chịu cảnh đọa đày?
Sở dĩ các Ðấng Linh
Thiêng chưa thể ra tay oai linh trừ bạo cứu dân cứu nước, cũng chỉ vì tại chúng
ta. Chúng ta không đóng góp phúc đức, không học hỏi, không có đủ phúc đức thì
chưa xứng đáng làm tác nhân cho các Ngài xử dụng vào đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước
để gọi là, “Bất chiến tự nhiên thành.”
Nói theo kiểu Trạng
Trình, “Bất chiến tự nhiên thành!” Sở dĩ được gọi là “bất chiến” vì trong việc
“tham chiến” với Ðạo Binh Nhân Nghĩa của chúng ta đã nhận sự phù trợ của các Đấng
Linh Thiêng. Với sự tham chiến cùng bao lớp con cháu trừ ác cứu dân được gọi là
“bất chiến,” tất nhiên chúng ta không chỉ có được “sức thần” (sức mạnh, thần lực)
mà còn đủ tài đủ trí, thông toàn và thành công thắng giặc.
Nhìn vào lịch sử thì những
cuộc chiến thắng lớn thường kết tụ tinh anh sau vài trăm năm mới có, nếu ước
tính từ Chiến Thắng Ðống Ða lịch sử thì tới nay cũng đã đủ thời gian cho “thiên
tài cứu nước” sản sinh. Muốn thế, chúng ta phải đóng góp phúc đức, và “cộng tài
cộng đức” tức là “cộng nghiệp,” là tổ chức. Tổ chức hợp thời đại thì mới thành
công.
Kể từ Chiến Thắng Ðống Ða
đã hơn hai trăm mùa xuân trôi qua với bao vật đổi sao dời, nhưng chiến công hiển
hách của người anh hùng áo vải khởi nghĩa của đất Tây Sơn vào Tết Kỷ Dậu năm
xưa vẫn oai linh ngời sáng. Và ngọn lửa Cứu Nước ấy luôn luôn bừng cháy nung
đúc tình yêu nước thương dân của bao thanh niên hào kiệt anh tài, noi gương Ðại
Ðế Quang Trung mở ra trang sử hiển hách và dựng lại Kỳ Đài Bách Việt, hay được
gọi là Hoa Tiên Rồng Mở Hội của ngày nay.
Và trong nỗi đau quốc nạn,
mỗi người chúng ta cần suy niệm phúc đức của Tổ Tiên, lúc ấy chúng ta mới vững
dạ sắt gan, bừng lên hùng khí mà vượt qua giai đoạn chiến đấu khó khăn nhất,
chính là chiến thắng ngay tự trong tâm hồn của mổi người mà ra, mà có, mà
thành.
Nhiều người cũng đang chú
tâm tìm kiếm “minh quân, thánh chúa.” Xin hỏi hễ là con người thì ai có đủ tài
đức lớn để cứu được toàn dân? Nếu có, phải chăng chúng ta nhờ có phúc đức cùng
nhau đóng góp trong tổ chức mà người lãnh đạo được bầu làm đại diện.
Các Vị Anh Hùng trong lịch
sử được gọi là đủ tài, đủ đức cũng do Các Ngài cộng tài, cộng đức trong những tổ
chức của Các Ngài. Và Phúc Ðức ngày nay qủa là một tiêu chuẩn, là thước đo được
dùng trong một tổ chức để xét đúng sai, chánh tà.
Phúc đức là quan niệm căn
bản cho mọi hoạt động cứu nước của chúng ta ngày nay. Do đó chúng ta ý thức rõ
ràng rằng, mỗi phút giây, mỗi hành động lo liệu cho quê hương đồng bào là những
việc đại phúc. Bằng nhờ vào quan niệm phúc đức mà chúng ta không còn bơ vơ hay
chán nản lạc lõng trong cuộc sống gọi là tẻ nhạt thường nhật, vì mỗi phút giây
dành để cho quê hương, là đại phúc.
Phúc đức đó, chẳng những
chính mình, gia đình dòng tộc được hưởng, mà quê hương dân tộc cũng được hưởng
nhờ. Bởi có đủ phúc đức thì mới cứu được dân nước. Và như thế, các tổ chức
chính danh là tụ điểm giúp nhau thêm tài thêm đức, và cộng tài cộng đức để giải
cứu đồng bào.
Mỗi phút giây cho quê
hương là đại phúc
Xin góp tài đức làm sức mạnh
diệt giặc,
Quê Hương Việt Nam đang
chờ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét