Những bài học từ các buổi cử hành Thánh Thể của Kitô hữu ban đầu cũng dành cho chúng ta.
LM
Joseph Wimmer – Lại Thế Lãng dịch- Sun, 06/06/2021
Tại Bữa Tiệc Ly vào đêm
trước khi bị đóng đinh Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ “Đây là Mình Ta. Đây là
Máu Ta. Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Với những lời này Ngài đã biến lễ Vượt
qua của người Do Thái cổ đại thành một lễ kỷ niệm giao ước mới và mối quan hệ mới
với Đức Chúa Cha.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại
và lên trời, các môn đệ và những Kitô hữu tiên khởi đã tụ họp lại để dùng bữa
như Chúa Giêsu đã nói với họ. Lập lại lời của Chúa Giêsu “Đây là Mình Ta, đây
là Máu Ta” họ đã biết về sự hiện diện của Ngài ở giữa họ. Chúa Giêsu đã không bỏ
rơi họ! Dù đã ngồi trên thiên đàng, Ngài vẫn còn gần gũi, vô hình nhưng ở đó
trong một mầu nhiệm nhưng có thật với tư cách là Chúa và anh em của họ.
Tuy nhiên những Kitô hữu
tiên khởi biết rằng qùa tặng này không chỉ để cho họ hưởng thụ. Nó phải được
chia sẻ với những người khác trong việc “bẻ bánh” trong sự hiệp nhất giữa tình
yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân của họ. Theo thánh Gioan, ngay cả Bữa Tiệc
Ly bắt đầu bằng một bài học phi thường về sự phục vụ khiêm nhường: Chúa Giêsu rửa
chân cho các môn đệ “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy
đã làm cho anh em.” (Ga 13: 15)
Những truyền thống lâu đời
nhất. Mặc dầu việc cử hành món qùa của chính Chúa Giêsu, đôi khi được gọi là Bữa
tối của Chúa (1 Cr 11: 20) trong những ngày đầu tiên này người ta thường gọi là
lễ “bẻ bánh”. Tại sao? Bữa ăn trong nhà của những người Do Thái thời cổ đại
luôn bắt đầu bằng một lời chúc lành cho bánh bởi người chủ gia đình, người này
sau đó sẽ bẻ bánh và chia cho mọi người trong bàn. Đó là một cách để cảm tạ
Chúa về thức ăn và sự đoàn kết của các thành viên chung quanh bàn ăn. Bữa Tiệc
Ly cũng đã bắt đầu theo cách tương tự và các Kitô hữu đầu tiên chỉ đơn giản gọi
nó bằng nghi thức “bẻ bánh” ban đầu này. Mãi đến đầu thế kỷ thứ hai người ta mới
biết đến “Bí tích Thánh Thể” một từ ngữ Hy Lạp có nghĩa là “tạ ơn”.
Không rõ những Kitô hữu
tiên khởi đã tổ chức bữa ăn đặc biệt này thường xuyên như thế nào, nhưng có lẽ
họ đã thực hiện ít nhất một lần mỗi tuần. Trong văn hóa Do Thái, ngày bắt đầu từ
tối hôm trước vì vậy Chúa nhật hay là “ngày đầu tiên trong tuần” (Cv 20: 7; 1
Cr 16: 2) thật sụ bắt đầu từ tối thứ Bảy. Thánh Luca, trong việc mô tà cuộc sống
của những Kitô hữu tiên khởi nói rằng họ “vẫn trung thành với sự dậy dỗ của các
tông đồ về việc bẻ bánh, về tình bằng hữu và những lời cầu nguyện (Cv 2:42). Bằng
việc liệt kê việc bẻ bánh với sự giảng dậy của các tông đồ và lời cầu nguyện,
Luca cho thấy đó là một bữa ăn đặc biệt. Và bằng việc thêm tình bằng hữu trong
danh sách, ông thêm vào chiều hướng quan trọng của việc những tín hữu chia sẻ
cuộc sống của họ với nhau.
Một vài câu sau đó Luca
nhắc lại “Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ
bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ.” (Cv 2: 46). Một lần nữa
ông đề cập đến một nghi thức thường xuyên “hàng ngày” liên quan đến một bữa ăn
trong nhà của người nào đó và sự cởi mở trong việc chia sẻ nó một cách hào
phóng với những người khác.
Chúng ta hãy còn có một
cái nhìn thoáng qua về việc rước lể ban đầu trong sách Công vụ Tông đồ. Thánh
Luca giải thích việc ông và Phaolô đã ở lại một tuần lễ tại Troas ở Tiểu Á và rằng
Phaolô sắp khởi hành. Ông viết:
Ngày thứ nhất trong tuần,
chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phao-lô thảo luận với các anh em và vì hôm
sau ông ra đi, nên ông đã kéo dài cuộc nói chuyện đến mãi nửa đêm. Có khá nhiều
đèn thắp sáng ở lầu trên, nơi chúng tôi họp nhau. Một thiếu niên kia, tên là
Êu-ty-khô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phao-lô vẫn cứ
giảng. Vì ngủ say, nên nó ngã từ tầng thứ ba xuống. Vực lên, thì nó đã chết.
Ông Phao-lô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống
mà!” Rồi ông lên lầu, bẻ bánh và ăn. Ông còn nói chuyện khá lâu, mãi đến tảng
sáng mới ra đi. Người ta đưa cậu bé đang sống về và ai nấy được an ủi không ít.
(Cv 20: 7- 12).
Rõ ràng Phaolô đã chủ tọa
lễ “bẻ bánh” bắt đầu từ buổi tối và bao gồm một bài nói chuyện rất dài. Luca
cho thấy rằng đó là một buổi phụng vụ chứ không chỉ là một bữa ăn đơn thuần khi
ông nói về sự thắp sáng của “nhiều ngọn đèn”. Ngay cả câu chuyện của Êu-ty-khô
cũng cho thấy một khía cạnh thiết yếu của buổi cử hành này: Sự kết hiệp với
nhau chung quanh bàn tiệc của Chúa nhất thiết phải bao gồm sự quan tâm đến sức
khỏe thể chất của nhau.
Bí tích Thánh thể vào buổi
sáng. Vào nửa đầu thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, các buổi cử hành Thánh Thể
Kitô giáo được tổ chức vào buổi sáng Chúa nhật và không còn là một phần của những
bữa ăn chung nữa. Có lẽ đơn giản là vì đám đông trở nên qúa lớn hoặc có lẽ sự lạm
dụng đã len lỏi trở lại các bữa ăn tối của cộng đồng. Đôi khi mọi người cầu
nguyện suốt đêm và kết thúc buổi canh thức của họ bằng việc cử hành Thánh Thể
vào buổi sáng. Sự hiểu biết của chúng ta về những thực hành này rất hạn chế
nhưng chúng ta có một văn bản từ khoảng năm 150 sau Công nguyên, lời Tạ lỗi Đầu
tiên của thánh Justin mô tả một buổi cử hành Thánh Thể Kitô giáo vào sáng Chúa
nhật với phụng vụ được mô phỏng theo buổi lễ trong nguyện đường Do Thái. Ông viết:
Chúng tôi chào đón nhau bằng
một nụ hôn. Sau đó bánh và một cái chén đựng rượu pha với nước được đưa tới trước
người chủ tọa; người này nhận lấy và dâng lời cầu nguyện, tôn vinh Chúa Cha
muôn vật qua danh Chúa Con và Chúa Thánh Thần . . . Khi lời cầu nguyện ta ơn kết
thúc, tất cả mọi người hiện diện đều tán thành bằng tiếng “Amen!” . . . Các phó
thế phân phối bánh và rượu pha nước . . . Thức ăn này chúng ta gọi là “Thánh Thể”
. . . vì chúng ta không nhận những thứ này như thể chúng là thức ăn và thức uống
thông thường . . . Vì thức ăn mà lời cảm tạ đã được đọc trên đó đã trở thành Thịt
và Máu của Chúa Giêsu nhập thể để nuôi dưỡng và biến đổi thịt và máu chúng ta.
Justin cũng bao gồm những
lời thánh hiến và ghi chú rằng “những hồi ký của các tông đồ hay là những tác
phẩm của các tiên tri” đã được vị chủ tế đọc và công bố “để khuyến khích và
khích lệ chúng ta noi gương những điều tuyệt vời mà chúng ta đã nghe”. Một cuộc
quyên tiền được thực hiện cho những người có hoàn cảnh khó khăn: các góa phụ,
trẻ mồ côi, người ốm đau, người xa lạ và những người khác. Họ thậm chí còn đọc
kinh Lậy Cha với nhau. Theo nhiều cách, mô tả này phản ánh cấu trúc của Thánh lễ
như là vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Lời cầu nguyện và lời huấn
dụ của các Giáo phụ. Bản văn hoàn chỉnh sớm nhất về phụng vụ Thánh Thể mà chúng
ta có đã được viết bởi thánh Hippolytus
của Rôma vào khoảng năm 215 sau Công Nguyên. Được mô phỏng theo những lời nguyện
của người Do thái sau bữa ăn, nó bao gồm lời thánh hiến và tưởng nhớ công việc
cứu độ của Chúa Giêsu. Giờ đây, với sự cải cách của công đồng Vaticanô II, lời
nguyện cổ xưa này đã được phục hồi và ngày nay được sử dụng như Kinh nguyện
Thánh Thể II.
Ngoài những lời cầu nguyện
cụ thể, qùa tặng Thánh Thể của Chúa Giêsu đã truyền cảm hứng cho những tác giả
Kitô giáo thuở ban đầu nhấn mạnh lời ngợi khen và cảm tạ một cách vui mừng, và
nhắc nhở các tín hữu về nhu cầu hiệp nhất và bác ái.
Thánh I-Nhã, Giám mục của
Antioch bị bắt giữ bởi nhà cầm quyền Rôma vào khoảng năm 107 sau Công Nguyên và
bị kết án bằng cách lôi ra cho thú dữ vì niềm tin của ông. Trên đường tới Rôma
ông đã viết bảy lá thư, trong đó có một số mô tả về Bí tích Thánh Thể: “Hãy cẩn
thận khi tham dự chỉ trong một Bí tích Thánh Thể, vì chỉ có một thịt của Chúa
Giêsu và một chén để liên kết chúng ta trong máu của Ngài, một bàn thờ, giống
như chỉ có một giám mục” “Uớc muốn của tôi về bánh của Thiên Chúa là thịt của
Chúa Giêsu Kitô và tôi ước muốn uống máu của Ngài là tình yêu không thể hư được”.
Trong những lá thứ này I- Nhã nhắc nhở mọi người về điều răn gấp đôi của tình
yêu và nói thêm: “Những ai tự xưng mình là Kitô hữu không chỉ bởi những gì họ
nói nhưng bởi những gì họ thực hành”.
Thánh Leo Cả, Giám mục của
Rôma người đã đối mặt với Attila the Hun vào năm 452 sau Công Nguyện đã giảng
nhiều bài giảng về việc chăm sóc cho những người cần được giúp đỡ. Vị Giám mục
cũng nhấn mạnh đến thực tế của sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể và sự liên
kết thân mật của chúng ta với Ngài: “Ngay cả miệng lưỡi của trẻ sơ sinh cũng
không thể giữ yên lặng trước sự thật về Mình và Máu Chúa Kitô trong nghi thức
rước Rước lễ. Vì trong sự phân phối thần bí của việc nuôi dưỡng tâm linh đó, những
gì được cho và lấy thuộc về loại mà chúng ta nhận được sức mạnh từ thức ăn trên
trời truyền vào thịt của Đấng đã trở thành thịt của chúng ta”
Những bài học này của những
người Kitô hữu tiên khởi cũng áp dụng cho chúng ta nữa. Họ kêu gọi chúng ta đón
nhận Chúa Giêsu với niềm vui khiêm tốn và lòng biết ơn trong tâm hồn chúng ta,
nhưng cũng phải mở rộng tâm hồn trong tình yêu quảng đại đối với người chung
quanh chúng ta. Chúa Giêsu hiện diện trong nhiều cách, vinh hiển bên hữu Đức
Chúa Cha, trên bàn thờ trong Thánh lễ, trong tâm hồn chúng ta và ngay trong “sự
che dấu nỗi đau buồn của người nghèo nhất trong những người nghèo” (Mẹ
Têrêsa)./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét