Mon, 12/09/2022 -Trầm
Thiên Thu
Năm 1903, Hồng Y Đoàn
nhóm họp tại Rôma để bầu người kế vị GH Lêô XIII, người đã trị vì 25 năm. Nhiều
người nghĩ rằng mật nghị sẽ bầu HY Mariano Rampolla, người từng giữ chức vụ Ngoại
trưởng có ảnh hưởng của Đức Lêô XIII. Khi rõ ràng HY y Rampolla đang chốt số
phiếu để được bầu, Tổng giám mục Krakow đã can thiệp.
Hoàng đế Áo Franz Joseph
đã chỉ thị cho thần dân Cracovia sử dụng quyền Ius Exclusivae – một quyền loại
trừ được một số quốc vương Công giáo tuyên bố để phủ quyết một ứng viên duy nhất
trong mật nghị – chống lại Rampolla. Ngay lập tức Hồng Y Đoàn không đồng ý với
yêu cầu của Hoàng đế, nhưng sau nhiều vòng bỏ phiếu nữa, người được bầu chính
là HY Giuseppe Sarto, không phải HY Rampolla, và ngài đã nổi bật giữa mật nghị
với tư cách là Giám Mục Mới của Rôma. Tân giáo hoàng lấy tông hiệu là Piô X.
Mật nghị năm 1903 không
phải là lần đầu tiên một quốc vương Công giáo phủ quyết một ứng viên trong mật
nghị, nhưng đó là lần cuối cùng. Chỉ vài tháng sau khi được bầu cử, Đức Piô X
đã chấm dứt Ius Exclusivae một lần và mãi mãi.
Còn hơn một chút hấp dẫn
về chuyện vặt vãnh của Công giáo, câu chuyện Mật nghị năm 1903 cũng là lời nhắc
nhở rằng giáo dân Công giáo trong quá khứ đã tạo ảnh hưởng lớn trong Giáo hội –
ngay cả khi theo những cách không phải lúc nào cũng có ý nghĩa thần học, hoặc
ngồi đúng với hệ thống tôn ti trật tự.
Vẫn còn lại một vài dấu
tích còn sót lại của trật tự cũ. Ví dụ, Tổng thống Cộng hòa Pháp vẫn giữ quyền
đề cử các giám mục của Metz và Strasbourg. Sự thỏa thuận giữa Vatican với Trung
quốc là một bước lùi xa (và nguy hiểm hơn), nhường quyền đề cử cho Bắc Kinh một
cách hiệu quả.
Sắc lệnh Christus Dominus
của Công đồng Vatican II (28-10-1965) về nhiệm vụ giám mục trong Giáo hội, rõ
ràng phản đối việc mở rộng các quyền như vậy cho các nhà chức trách thế tục
(không nói đến chính phủ cộng sản vô thần): “Thánh công đồng muốn rằng trong
tương lai không còn quyền hoặc đặc quyền bầu cử, đề cử, trình bày hoặc chỉ định
chức giám mục được cấp cho các cơ quan dân sự.”
Nếu Công đồng Vaticanô II
nhấn mạnh lời kêu gọi nên thánh toàn cầu và trách nhiệm thiết yếu của tất cả những
người được rửa tội đối với sứ mệnh của Giáo hội, Công đồng này cũng khép lại một
số cách thức rõ ràng hơn, trong đó giáo dân có ảnh hưởng đến đời sống và sự
lãnh đạo của Giáo hội.
Với mức độ nhất định, ít
nhất là ở Tây phương, phần lớn thời kỳ hậu Công đồng đã được đánh dấu bằng nỗ lực
xác định quyền giáo dân: không phải ở con người của các hoàng tử Công giáo, mà ở
một cách thức dân chủ hơn.
Ví dụ rõ ràng và gần đây
nhất về điều này là Đường lối Thượng hội đồng Đức, coi “quyền lực” một cách rõ
ràng là một trong bốn diễn đàn chính để thảo luận. Thượng hội đồng về tính hiệp
hành, tùy thuộc vào việc ai đang nói về nó, cũng thường được mô tả là dân chủ
hóa và phân quyền của Giáo hội, bất chấp những cảnh báo liên tục của ĐGH
Phanxicô chống lại những nỗ lực tìm hiểu tính công nghị qua các phạm trù như vậy.
Trong khi đó, hình thức
chủ nghĩa giáo sĩ nguy hiểm và phổ biến nhất trong Giáo hội ngày nay – niềm tin
không thể chối cãi rằng thước đo của một giáo dân là sự gần gũi với quyền giáo
sĩ – vẫn tiếp tục lan tràn. Đó là ý tưởng được phổ biến chủ yếu bởi giáo dân.
Trong khi nhiều giáo dân
tiếp tục tranh giành một chỗ ngồi tại bàn giáo sĩ – lo lắng về việc ai được ở
trong cung thánh trong Thánh Lễ hoặc phục vụ là người đứng đầu Giáo hội này hoặc
giáo sĩ khác trong Giáo triều Rôma – những cánh đồng nho rộng lớn đang rơi vào
tình trạng lộn xộn chỉ có thể được giáo dân chăm sóc.
Hãy lấy ví dụ cuộc sống
gia đình. Công đồng đã nói rất hay về vai trò thiết yếu của hôn nhân và gia
đình trong việc truyền bá đức tin.
Từ hôn nhân của các Kitô
hữu mà có gia đình, trong đó các công dân mới của xã hội loài người được sinh
ra, những người nhờ ơn Chúa Thánh Thần đã lãnh nhận khi chịu phép rửa, được làm
con Thiên Chúa, do đó dân Chúa tồn tại qua các thế kỷ. Có thể nói rằng gia đình
là Giáo hội tại gia. Trong đó, bằng lời nói và gương sáng, các bậc cha mẹ phải
là những người rao giảng đức tin đầu tiên cho con cái, họ nên khuyến khích
chúng theo ơn gọi phù hợp với mỗi người, nuôi dưỡng ơn gọi quan tâm đặc biệt đối
với tình trạng thiêng liêng.
Nhưng tại Hoa Kỳ, trong
những năm kể từ khi có Công đồng, số lượng các cuộc hôn nhân Công giáo đã giảm.
Theo tổ chức CARA, có
426.309 hôn lễ Công giáo được cử hành ở Hoa Kỳ vào năm 1969, khi có khoảng 50
triệu người Công giáo tại nước này. Năm 2014, số người Công giáo ở nước này đã
tăng lên khoảng 70 triệu người – nhưng lần đầu tiên số lượng các cuộc hôn nhân
Công giáo giảm xuống dưới 150.000 hôn lễ. Năm 2020, chắc chắn vì đại dịch, tổng
số hôn lễ Công giáo được cử hành ở Hoa Kỳ giảm xuống còn 97.200 hôn lễ.
Khi hình thành các cuộc
hôn nhân Công giáo – một phần trọng tâm và không thể thay thế của ơn gọi giáo
dân, người Công giáo đang thất bại kinh khủng. Không có gì ngạc nhiên, khi nói
đến việc nâng cao thế hệ người Công giáo tiếp theo, những con số cho thấy giáo
dân Công giáo cũng đang thất bại trong ơn gọi của họ. Năm 1969, có hơn 1 triệu
trẻ sơ sinh được rửa tội; năm 2014, con số giảm xuống dưới 700.000 em. Những cuộc
rước lễ lần đầu cũng giảm đáng kể.
Đây không phải là tin tức,
xu hướng đã rõ ràng trong nhiều thập kỷ qua. Trong hầu hết các trường hợp, đại
dịch đã nhanh chóng thúc đẩy sụp đổ mau chóng. Thậm chí chúng ta còn chưa đề cập
việc truyền bá văn hóa hay kinh tế hay chính trị – tất cả chủ yếu là trách nhiệm
của giáo dân.
Công đồng Vatican II đã
hình dung sự phục hồi của ơn gọi giáo dân. Trong những năm gần đây, việc đổ lỗi
cho giáo hoàng, giám mục hay linh mục về tình hình công việc, giáo dân cần tự hỏi
tại sao phần vườn nho của chúng ta lại rơi vào tình trạng lộn xộn như vậy.
STEPHEN P. WHITE
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ
)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét