Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017

Apr 23, 2017 – Chúa nhật thứ II Phục Sinh năm A - Tình thương của Chúa Phục Sinh


Apr 23, 2017 – Chúa  nhật  thứ  II  Phục  Sinh  năm A

 Tình  thương  của  Chúa  Phục  Sinh



              
                                       
Các Bạn thân mến,
Năm 1931 Đức Giesu nói với Thánh nữ Faustina, là Ngài muốn kính trọng thể "Ánh sáng tình thương của Chúa, gọi là Lòng Thương Xót Chúa" vào chúa nhật thứ hai sau Phục Sinh của Ngài.
Giáo Hội đã tuân theo, và còn phổ biến sâu rộng về Lòng Thương Xót Chúa (LTXC), với những sự sùng kính: treo ảnh LTXC, lần hạt chuỗi thương xót và rất nhiều những việc tốt lành khác.
 Bởi LTXC đã thể hiện hằng giây phút trên tất cả mọi người, mặc dù chúng ta:
  -    đã được Chúa Thánh Thần tác động, nhưng nhiều khi chúng ta vẫn kém lòng tin.
  -    thừa hưởng niềm hy vọng sống động, nhưng đôi khi chúng ta vẫn buồn chán, thất vọng, muốn tìm an ủi khác.
  -    là thành phần của giáo hội, cộng đòan những người tin, nhưng nhiều khi chúng ta lại thờ ơ, lẩn tránh, thiếu quan tâm đến người khác, đến sinh hoạt chung.
-          V.v…
Xin LTXC cho chúng ta thừa hưởng những hoa trái của Đức Giesu Phục Sinh, đặc biệt lòng kính tin Ngài.
Tin Mừng chúa nhật này thể hiện rõ nét về LTXC qua câu chuyện tông đồ Toma mà Thánh Gioan thuật lại một cách chi tiết.

1.    Sau khi Đức Giesu chịu chết:
      -   Tình hình của các môn đệ sau khi Đức Giesu chịu chết thật là bi thảm, tối tăm.
 -    Bởi các ông đã chứng kiến cảnh Thầy mình bị quân lính với vũ khí trong tay đến bắt tại vườn cây dầu.
     -    Rồi chứng kiến cảnh tra tấn, nhục mạ, vác thập gía, và chết trần truồng bên cạnh những tên gian phi.
     -    Sau đó lại nghe tin Ngài sống lại, đã ra khỏi mồ, khiến các ông lo lắng sợ hãi.
     -    Riêng ông Toma còn sợ hơn nữa bởi tính bi quan nên ông tránh mặt, không dám gần các môn đệ bạn vì sợ liên lụy.
     -    Vì lúc trước Đức Giesu và các ông đã hăng hái đi khắp nơi trong vùng, rao giảng và làm nhiều phép lạ, cùng phê phán, lên án những việc sai trái, gỉa hình đạo đức của con người, đặc biệt nhóm biệt phái và Pharisieu.
     -    Tư tưởng, hành động cách mạng tôn giáo này đã gây nhiều mâu thuẫn, căm ghét từ đối phương.
     -     Nay Người Thầy, Người Chúa đã bị bắt, bị giết chết rồi lại biến mất…thì còn gì đau khổ lo lắng sợ hãi hơn? Về tinh thần, lý tưởng, các ông còn băn khăn bối rối thất vọng hơn nữa, vì đã đảo ngược tất cả những gì Thầy đã nói, đà làm, đã dạy trong ba năm trời!
    -    Các ông chỉ còn biết cùng nhau ẩn trốn trong căn nhà nhỏ.

2. Được sai đi:
   -   Lần hiện ra thứ hai này, sau khi ban bình an cho các môn đệ, Đức Giesu Phục Sinh nói:"Như Chúa Cha đã sai thầy, thì Thầy cũng sai anh em."
   -    Sứ mạng này xuất phát từ Chúa Cha truyền cho Đức Giêsu, và giờ đây đến lượt Đức Giêsu Phục Sinh lại truyền cho các môn đệ và tất cả mọi tín hữu. Nghĩa là tất cả chúng ta đều “được sai đi”.
   -    Rồi Người thổi hơi vào các ông và bảo:“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”
   -   Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào Ađam để ban sự sống cho ông, thì nay, Đức Giêsu Phục Sinh cũng thổi Thần Khí, sức sống cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại ban sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu.
   -    Đó là một chuỗi móc xích liên tiếp "được sai đi" để rao truyền về Đấng Phục Sinh vinh hiển cho cả thế giới.
   -    Chúng ta là một trong những móc xích đó, nên cũng có trách nhiệm, bổn phận của người "được sai đi."
   -    Ngài nói tiếp:"Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
   -    Là Ngài thiết lập Bí Tích Giải Tội, ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây các Giám Mục kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông ban quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của các ngài.

3. Một kinh nghiệm quí:
   -    Ông Toma bi quan, nên gặp đau buồn thất vọng, ông thường tìm nơi kín đáo, yên tĩnh để trốn chạy hiện tại.
   -    Vì tính cách đó, sau cuộc tử nạn của Thầy mình, Toma liền rút lui khỏi các buổi sinh hoạt với các môn đệ bạn.
   -    Không có mặt thường xuyên hiệp thông với các bạn nên Toma mất cơ hội gặp Đức Giesu Phục Sinh khi Ngài đến thăm các ông lần thứ nhất.
   -     Là lần đầu tiên các môn đệ thấy Ngài trở lại, và các ông tin ngay Ngài đã sống lại thật.
   -     Niềm tin vì thấy này có gía trị rất lớn, là điều kiện để các ông tiếp tục theo Đức Giesu cũng như để những gì các ông rao truyền có giá trị, thuyết phục mọi người.
   -    Còn Toma không chỉ mất cơ hội gặp Chúa, để nhìn thấy Ngài đã Sống lại, mà còn mất niềm vui, lời ban bình an, và ơn Thánh Thần. 
   -    Nếu Toma thất vọng, mặc cảm, chạy trốn mãi thì chắc chắn chẳng bao giờ ông có thể gặp được Chúa Sống lại, được lãnh nhận những ơn sủng của Đấng Phục Sinh.
   -    Đây là một bài học qúi giá để chúng ta ý thức rằng không bao gio tự tách mình ra khỏi sự hiệp thông với các tín hữu, đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ, lãnh nhận ơn của Thiên Chúa.
   -     Bởi nhiều điều tốt lành có thể đến khi chúng ta cùng nhóm họp, hiệp thông với nhau trong Giáo Hội, mà sẽ khó xẩy ra nếu chúng ta ở riêng rẽ một mình.
   -     Khi gặp cảnh đau buồn, chúng ta thường có khuynh hướng muốn tách mình ra khỏi đám đông để ở riêng một nơi, không muốn làm gì, chẳng muốn gặp gỡ ai, cũng là chuyện phổ biến.
   -     Tuy nhiên, chính những lúc như thế, chúng ta cần cố gắng, can đảm, bình tĩnh, nâng tâm lòng lên, cần tạo hứng thú để tìm đến thông hiệp với các tín hữu, cần nghe theo lời hướng dẫn, vì trong sự hiệp thông, chúng ta có cơ may gặp Chúa nhiều hơn.
   -     Khi đó LTX của Chúa sẽ khơi dậy lòng Tin Cậy Mến nơi chúng ta cũng như chính LTX Ngài đã lôi kéo Toma đến với các môn đệ, nhờ đó ông được gặp Đấng Phục Sinh, được thu tha và được hân hoan, mạnh dạn sống lại trong đức tin.

3.    Một mẫu tuyên xưng đức tin:
       Ông Toma là một người thành thật, qủa quyết:
    -     Ông có thái độ thành thật bất khả khoan nhượng, với sự trung thực chân thành.
    -     Ông không đè nén sự nghi ngờ, hoài nghi, không gỉa vờ gỉa tạo tin, hiểu cho qua chuyện, cho xong. Mà cái gì ông cũng muốn biết rõ ràng, chắc chắn.
    -    Tính cách và thái độ của ông hoàn tòan đúng và đáng khen.
    -    Thật vậy, một người đòi hỏi mọi điều phải chắc chắn thì có đức tin vững vàng hơn người chỉ lập lại theo những gì người khác nói, còn bản thân mình chẳng muốn suy nghĩ gì thêm, chẳng hiểu, cũng không thật sự tin tưởng.
    -    Chính sự cẩn thận, hoài nghi như thế cuối cùng sẽ đạt đến chỗ tin chắc chắn.
    -    Khi biết chắc chắn điều gì, Toma sẽ đi đến cùng của sự việc.
    -    Với ông, không có vị trí lưng chừng, ông nghi ngờ không phải vì thất vọng, vì đa nghi, mà vì muốn biết rõ cẩn thận, và khi biết chắc chắn rồi, ông hoàn toàn tuân phục.
    -    Tóm lại Toma là người chậm tin, chậm thuần phục, nhưng khi thuần phục thì thuần phục đến cùng, không gì có thể thay đổi được.
    -    Chúng ta hãy nhớ lại khi Đức Giesu muốn trở lại miền Giude để thăm Lararo mới chết, các môn đệ khác đều phân vân sợ hãi, nhưng Toma lại hăng hái nói:"cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chết với Thầy."
    -    Và lần này đứng trước mặt Đấng Phục Sinh, Ngài mời ông tự làm cuộc trắc nghiệm mà ông đòi hỏi. Bấy giờ ông Toma chỉ còn biết tuôn tràn tình yêu thương và lòng tôn thờ:"Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!"
    -    Với ông, có đức tin không phải là chuyện dễ dàng, không bao giờ ông sẵn sàng vâng lời ngay. Ông là người tính thật kỹ cái gía phải trả.
    -    Có đức tin như Toma tốt hơn đức tin bề ngoài, môi miệng; vâng lời chậm chạp như Toma vẫn tốt hơn cái gật đầu đồng ý nhanh chóng rồi dễ dàng rút lui.
    -    Khách quan mà nói thì Toma khôn ngoan và thận trọng hơn các tông đồ khác.
    -    Đặc biệt là nhờ Toma mà chúng ta có được một công thức tuyên xưng đức tin thật đầy đủ, làm mẫu mực cho ngàn đời, đó là lời ông đã phát ra từ đáy lòng thống hối ăn năn:"Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con."

4. “Phúc thay những người không thấy mà tin!”
   -    Kinh nghiệm thực tế cho thấy chúng ta tin do nghe nhiều hơn do thấy, như con trẻ tin lời cha mẹ, học sinh tin lời thầy cô, bệnh nhân tin lời bác sĩ, giáo dân tin lời hàng giáo phẩm…
   -    Nghĩa là chúng ta biết được điều này điều kia là do chúng ta tin vào những gì người khác nói lại. Một nhà chuyên môn ước lượng rằng 80% những kiến thức của chúng ta là do tin tưởng vào người khác mà có.
   -   Vì tin do thấy, do biết rõ, do có thể kiểm chứng được bằng cách này cách khác, như bằng thực nghiệm khoa học … là cái tin tự nhiên của vật chất, của vạn vật cụ thể, của tạo vật.
   -    Phần lớn tri thức tôn giáo mà chúng ta có cũng là do chúng ta tin vào những gì Kinh thánh kể lại, tức là do niềm tin.
   -    Bởi tin do tín nhiệm là một thể hiện của lý trí, đạo đức, tình cảm. Do đó tin do tín nhiệm có gía trị hơn tin do bằng chứng.
   -    Như người ta tin theo tiếng nói con tim, các tín hữu tin vào chứng cứ của các môn đệ về sự Phục Sinh của Đức Giesu chứ không phải vì tiếp xúc trực tiếp với Ngài; cũng như tin các điều Thiên Chúa dạy truyền, mặc khải về những mầu nhiệm, là những điều vượt qúa sự kiểm soát của trí khôn loài người...
  -    Cuộc sống đức tin như vậy đầy những sự tín thác, chấp nhận, và thuyết phục.
  -    Như chúng ta tin nhận có Thiên Chúa Ba Ngôi, mà hoàn toàn không hiểu gì.
  -    Chúng ta phó thác đời mình cho Đức Giesu, Đấng mà chưa bao giờ chúng ta gặp mặt.
  -    Đức Giesu là Thiên Chúa vĩnh cửu, vô hình mà lại được một trinh nữ cưu mang và sinh hạ.
  -    Chúng ta chấp nhận mọi sự kiện may rủi thường xuyên ngoài khả năng mà không thể lý giải, cũng chẳng cần lý giải.
  -    Tuy nhiên đời sống đức tin của chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn do những khi yếu đuối, chậm chạp, cứng cỏi, hòai nghi, tối tăm, thất bại, bị áp lực...
  -    Ngay cả các tông đồ đã sống bên cạnh Đức Giesu ba năm trời, được dạy dỗ trực tiếp, được làm việc, ăn uống nghỉ ngơi cùng Ngài, được chứng kiến những phép lạ Ngài làm…mà còn phải thốt lên:"Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con."
  -    Chúa biết rõ những điều đó, và còn biết tất cả những yếu đuối, khó khăn của con người, nên Ngài luôn tuyên dương những người có Đức Tin, dù chỉ bằng hạt cải, cũng có thể thấy được thực tại siêu nhiên, đạt tới ơn cứu độ và làm được cả phép lạ, trừ được cả bẩy qủi dữ!
  -    Ngược lại, Ngài đã khiển trách các môn đệ yếu lòng tin, Toma cứng lòng, buồn phiền vì dân chúng thiếu tin và hiển nhiên cả những ai không tin nơi Ngài.
  -    Nên Ngài phán:"Phúc thay những người không thấy mà tin!"
 Lạy Đức Giesu Kito Phục Sinh, xin ban Thánh Thần, đức tin và sự bình an của Ngài cho chúng con, để chúng con vững tâm giữa bao sóng gío cuộc đời; vững tin vào Lòng Thương xót Chúa, như khi xưa Ngài  đã tha thứ cho sự cứng tin của Thánh Toma, thì nay Ngài cũng sẵn lòng tha thứ cho mỗi lần chúng con loay hoay với sự yếu tin của mình. Để chúng con luôn luôn hy vọng vào Ngài, hy vọng làm chúng con hăng hái lên đường. 
"Lạy Chúa Tình Thương, chúng con tin cậy nơi Ngai". Amen.


 Than men,
duyenky


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét