Tu tại gia
Cách
đây không lâu, gã có đọc được một câu chuyện đại khái như thế này:
Có
ba người cùng tôn giáo, gồm một nhà truyền giáo, một anh tài xế lái xe đò và
một bác nông dân có vợ và mười đứa con. Ba người đều thâm niên bốn mươi năm
chức nghiệp, đã qua đời cùng một giờ, cùng một ngày và cùng được lên trình diện
Chúa, để xin vào thiên đàng. Ba người cùng tới một lúc, nên Thánh Phêrô mới
nói:
–
Các anh hãy tự nhường nhịn nhau, vậy anh nào muốn vào trước?
Nhà
Truyền Giáo nói:
–
Hai anh dành cho tôi vào trước được không?
Anh
tài xế và bác nông dân đều kính nể vị lãnh đạo tinh thần, chẳc hẳn người có
nhiều công lao, nên đồng thanh cất tiếng cùng một lúc:
–
Chúng tôi xin nhường ngài vào trước.
Nhà
truyền giáo rất lấy làm hãnh diện thấy mình được nhường, cúi đầu chào thánh
Phêrô và chững chạc tiến vào cửa Thiên đàng, quỳ trước Thiên Nhan và tâu:
–
Muôn lạy Chúa, con là nhà truyền giáo đã làm việc thay thế các Tông Đồ, suốt
bốn mươi năm chuyên lo rao giảng Lời Chúa nhân từ cho giáo dân, xin cho con
được vào Thiên đàng trước.
Chúa
ngắm nhìn nhà truyền giáo với tấm lòng yêu thương dạt vào và rồi xuất khẩu
thành thơ, Ngài phán:
–
Bốn mươi năm dạy dỗ Lời Cha
Con giảng giáo dân ngủ gật gà
Đâu hiểu Phúc Âm mà áp dụng
Ra ngoài tạm nghỉ, đợi chờ Ta.
Con giảng giáo dân ngủ gật gà
Đâu hiểu Phúc Âm mà áp dụng
Ra ngoài tạm nghỉ, đợi chờ Ta.
Nhà
truyền giáo lủi thủi lui ra. Anh tài xế nói với bác nông dân:
–
Bác nhường cho tui vào trước nhé vì tui thường chở bác đi đây đi đó.
Bác
nông dân gật đầu chấp nhận vào sau chót. Anh tài nhanh nhảu cúi đầu chào thánh
Phêrô và tiến vào cửa Thiên đàng, quỳ xuống, rồi ngẩng mặt lên chiêm ngưỡng
Chúa và tâu:
–
Muôn tâu lạy Chúa! Con làm tài xế xe đò, suốt bốn mươi năm con phục vụ đồng
bào, chuyên chở vợ đi thăm chồng, con đi thăm cha, đem tình thương yêu đến với
mọi người. Thỉnh xin Chúa cho con được vào Thiên đàng sớm.
Chúa
nhìn anh tài xế, Ngài mỉm cười:
–
Ừ, kể ra con cũng có nhiều công to đáng được thưởng, tuy nhiên con tạm ra ngoài
nghỉ, chờ Cha xem kỹ lại một số hồ sơ vừa trình lên thưa kiện con vì bị thương
dập mũi, trầy trán gì đó mà Cha chưa kịp xem hết.
Cũng
xuất khẩu thành thơ, Ngài phán:
–
Xe đò chuyên chở khách đi xa
Thăm viếng chồng, cha cũng tuyệt mà
Đáng thưởng Thiên đàng nhờ lái giỏi!
Mỗi lần con thắng, chúng kêu Ta!
Thăm viếng chồng, cha cũng tuyệt mà
Đáng thưởng Thiên đàng nhờ lái giỏi!
Mỗi lần con thắng, chúng kêu Ta!
Anh
tài xế cũng chưa được vào, phải lui ra và ngồi chờ. Đến lượt bác nông dân, bác
rụt rè sợ sệt vì nghĩ bụng hai người có công lớn như vậy mà chưa được vào. Còn
mình chỉ có cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ, nuôi con, đâu có công lao
gì, thì làm sao vào nổi Thiên đàng, nên rất hồi hộp lo âu! Anh trịnh trọng cúi
đầu chào thánh Phêrô và nhỏ nhẹ thưa:
–
Bẩm ngài, con được phép vào chưa?
Thánh
Phêrô gật đầu và nói:
–
Con hãy vào trình diện Chúa đi.
Bác
nông dân rụt rè tiến vào, còn cách cửa Thiên đàng cả trăm mét, bác đã quỳ xuống
và di chuyển bằng hai đầu gối, gần đến cửa anh cúi rạp đầu và khúm núm tâu:
–
Bẩm lạy Cha nhân từ! Con là một nông dân dốt nát, nghèo hèn, bốn mươi năm chỉ biết
cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ và mười đứa con, ban tối còn phải phụ
bà xã rửa chén, cuối tuần còn phải lau nhà nữa. Xin Cha rộng lòng thương cho
con được nương náu dưới mái nhà thân yêu của Cha là con sung sướng lắm rồi. Cha
muốn con làm bất cứ việc gì, con cũng xin vâng theo!
Chúa
nhìn bác nông dân một cách trìu mến và Ngài phán:
–
Con quả thực có công lớn.
Rồi
Ngài đọc mấy vần thơ chợt nghĩ ra:
–
Làm chồng chiều vợ tuyệt vời thay
Nhịn nhục khôn ngoan đáng bậc thầy!
Suốt bốn mươi năm con chịu nổi
Thiên đàng, Cha thưởng bước vô ngay.
Nhịn nhục khôn ngoan đáng bậc thầy!
Suốt bốn mươi năm con chịu nổi
Thiên đàng, Cha thưởng bước vô ngay.
Từ
hình ảnh bác nông dân âm thầm chu toàn những bổn phận của mình, gã bỗng nhớ tới
mấy câu ca dao về đường tu, thì cũng có dăm bảy đường:
–
Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu… dòng.
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu… dòng.
Là
con nhà có đạo, chúng ta thường hiểu chữ tu là dấn thân theo đuổi lý tưởng phục
vụ Chúa và người khác. Lý tưởng ấy được thực hiện bằng hai cách, đó là tu triều
và tu dòng. Tu triều là dâng mình cho Chúa với mục đích làm công việc mục vụ,
không bị ràng buộc bởi lời khấn khó nghèo và đời sống chung, nhưng đoan hứa giữ
sự độc thân và vâng phục Giám mục như bề trên trực tiếp của mình. Còn tu dòng
là dâng mình cho Chúa, bằng cách theo đuổi sự hoàn thiện của Tin Mừng: khó
nghèo, trong sạch và vâng phục, với đời sống chung của cộng đoàn, được biểu lộ
qua việc tuyên khấn công khai vĩnh viễn hay tạm thời theo qui luật riêng của
từng dòng.
Tuy
nhiên, nếu hiểu chữ tu theo nghĩa rộng là sửa sang lại cho hoàn thiện, nhất là
bằng cách uốn nắn những sai lỗi, để trở thành một con người tốt lành và thánh
thiện hơn, thì đó phải là bổn phận đầu tiên của mọi người, ở mọi nơi và trong
mọi lúc. Đồng thời gia đình chính là môi trường thuận tiện để chúng ta thực
hiện lý tưởng đời tu của mình.
Vì
thế, ngoài tu triều và tu dòng, chúng ta còn có một cách tu khác nữa, đó là tu
nhà hay tu tại gia, nghĩa là cứ ở tại nhà, cứ sống trong gia đình của mình mà
tu bằng cách sửa đổi những khuyết điểm và chu toàn những bổn phận của đấng bậc
mình: Là con cái thì phải thảo kính và vâng lời cha mẹ; là vợ chồng thì phải
yêu thương và trung thành với nhau; là anh chị em thì phải hoà thuận và giúp đỡ
lẫn nhau.
Các
cụ ta ngày xưa đã từng nói: Phải tu thân trước đã, rồi sau mới tề gia, trị quốc
và bình thiên hạ. Việc tu thân này tiên vàn phải được thực hiện ngay tại gia
đình của mình, bởi vì nhiều khi chính những sai lỗi của chúng ta đã làm cho
những người thân yêu buồn phiền, cuộc sống trở nên ngột ngạt và tình yêu đi dần
tới chỗ rạn vỡ. Muốn được thương thì chúng ta cần phải trở nên một người thương
được.
Tuy
nhiên trong thực tế, chúng ta giống như người mang hai cái giỏ. Cái giỏ phía
trước đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ phía sau lưng thì đựng
những sai lỗi của mình. Bởi đó, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi
của người khác, để rồi lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao. Đang khi
đó, những sai lỗi của bản thân thì lại không nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy,
thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực, để bào chữa. Chúng ta
thường rộng rãi với bản thân mà nghiêm khắc với người khác. Đáng lý ra chúng ta
phải rộng rãi với người khác mà nghiêm khắc với chính bản thân mình.
Ngoài
ra, gia đình còn là một xã hội thu nhỏ, trong đó chúng ta có được những mối
liên hệ với nhau. Vì thế, việc tu nhà hay tu tại gia đòi buộc chúng ta phải chu
toàn những bổn phận của đấng bậc mình, để làm cho gia đình thực sự trở thành
một mái ấm ngập tràn hạnh phúc.
Trước
hết, là vợ chồng chúng ta có bổn phận phải yêu thương, hoà thuận, trung thành
và giúp đở lẫn nhau.
Hiện
nay, nền tảng gia đình đang bị lung lay tận gốc rễ và hôn nhân đang rơi vào một
cuộc khủng hoảng trầm trọng. Số những đôi vợ chồng lôi nhau ra toà để ly dị mỗi
ngày một gia tăng. Vậy phải làm thế nào để cứu vãn tình trạng đen tối này?
Theo
gã nghĩ: Cái qui luật muôn đời của tình yêu, chính là sự hy sinh. Thực vậy,
thánh nữ Têrêsa đã bảo: Tình yêu chân thật phải được nuôi dưỡng bằng hy
sinh. Hay như một câu danh ngôn đã nói: Hãy cho tình yêu vào máy mà cán, nếu nó
tiết ra chất hy sinh, thì đó là tình yêu thứ thiệc, bằng không thì đó chỉ là
một tình yêu dỏm mà thôi. Và tình yêu thứ thiệc này thì đáng giá bằng cả cuộc
đời.
Nếu
suy nghĩ, chúng ta thấy tình yêu và sự hy sinh luôn gắn bó mật thiết với nhau.
Hy sinh mà không có tình yêu thì đó chỉ là những sự thừa thãi. Còn tình yêu mà
vắng bóng hy sinh, thì đó chỉ là những lạm dụng và giả dối, như Tagore đã nói:
Tại sao hoa kia lại tàn và suối kia lại cạn. Xin thưa, chỉ vì người ta đã hái
hoa mà ép vào ngực, chỉ vì người ta đã đắp đập chặn suối. Nếu không biết vượt
qua tính ích kỷ thì tình yêu cũng sẽ khô cạn và tàn héo như vậy.
Hy
sinh càng lớn sẽ làm cho tình yêu càng thêm nồng thắm. Và với một tình yêu nồng
thắm người lại càng dễ chấp nhận những hy sinh to lớn hơn cho nhau và vì nhau.
Đỉnh cao của hy sinh cũng như của tình yêu đó là dám chết cho người mình yêu.
Thế nhưng, chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau cũng không phải là việc
dễ dàng.
Chuyện
rằng: Một người đàn ông nọ đi xưng tội. Cha giải tội ra việc đền tội bằng cách
hôn kính Thánh Giá ba lần. Ông ta bèn chạy về nhà, ôm chầm lấy bà xã và hôn lấy
hôn để những ba lần, bởi vì ông ta thầm nghĩ: Bà xã chính là cây Thập Giá Chúa
đã gửi vào cuộc đời của ông ta.
Tiếp
đến là cha mẹ, chúng ta có bổn phận phải sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con
cái.
Sống
trong thời buổi “gạo châu củi quế”, vật giá leo thang đến chóng cả mặt, nên chu
toàn được bổn phận sinh sản và nuôi dưỡng con cái không phải là chuyện dễ. Thảo
nào mà nạn ngừa thai tràn lan khắp nơi và Việt Nam ta đứng hàng đầu về nạn phá
thai.
Cùng
với những tiến bộ về những phương tiện truyền thông: Nào điện thoại di động,
nào nối mạng internet…Nhiều bậc làm cha làm mẹ đã không theo kịp con cái, thành
thử việc giáo dục đã gặp phải không ít những khó khăn.
Tuy
nhiên, đối với phần lớn người Việt Nam, con cái vẫn còn là một điều tốt lành
đáng được mong ước. Trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc
cho nhau: Đa tử, đa tôn, đa phú quí, có nghĩa là lắm con, nhiều cháu, lắm tiền,
nhiều bạc. Sở dĩ như vậy vì con cái sẽ làm cho bầu khí gia đình được đầm ấm,
được tươi vui như tục ngữ đã bảo: Con đàn như tre ấm bụi.
Mặc
dù vốn biết rằng: Con cái đôi lúc đã trở thành một gánh nặng, thế nhưng cha mẹ
vẫn có thể tìm thấy niềm hạnh phúc trong lành và đơn giản nơi con cái. Thiếu
con cái là thiếu ánh sáng nơi con mắt. Nhiều tiền mà không con thì vẫn chưa hẳn
là giàu. Trái lại đông con mà ít tiền, thì vẫn chưa hẳn là nghèo. Hơn nữa,
nhiều khi con cái chính là chiếc gạch nối, chính là nhịp cầu cảm thông giữa hai
vợ chồng. Đáng lý ra hai vợ chồng đã cãi cọ, đánh lộn hay lôi nhau ra tòa xin
ly dị, nhưng vì con cái, họ không nỡ làm như vậy. Vì con cái, họ quên đi và tha
thứ cho nhau. Vì con cái, họ tìm cách hòa giải cùng nhau. Vì con cái, họ sẵn
sàng chập nhận mọi hy sinh gian khổ. Bởi vì nhà không có tiếng cười của trẻ
thơ, thì vắng lặng, buồn tẻ như một ngôi mộ chết.
Ngoài
ra, là con cái, chúng ta có bổn phận phải yêu mến, trọng kính, vâng lời và giúp
đỡ cha mẹ.
Làm
sao kể ra cho hết những khổ đau, những vất vả, những hy sinh cha mẹ đã phải
chịu vì chúng ta suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nuôi dạy chúng ta
nên người. Chúng ta hãy nhớ lại hình ảnh người mẹ đã phải thức trắng nhiều đêm
để canh giữ giấc ngủ cho đứa con, khi nó đau ốm. Chúng ta hãy nghĩ đến những
giọt mồ hôi chảy xuống trên khuôn mặt người cha trong những giờ lao động cực
nhọc ngoài đồng ruộng nóng cháy, trong hầm đá mệt mỏi, hay tại nhà máy ồn ào
đinh tai nhức óc….tất cả những việc ấy để làm gì nếu không phải là để kiếm tiền
về nuôi sống chúng ta và gia đình.
Bởi
đó, chúng ta mắc nợ cha mẹ nhiều lắm, không phải chỉ mắc nợ về tiền bạc vật
chất, mà còn mắc nợ về tình yêu thương. Một khi đã mắc nợ về tình yêu thương
thì chỉ có thể đáp trả lai bằng tình yêu thương mà thôi. Ca dao đã nhiều lần
khuyên nhủ:
–
Dạy con, con chớ quên lời,
Yêu cha mến mẹ suốt đời không quên.
Yêu cha mến mẹ suốt đời không quên.
Cũng
trong chiều hướng ấy, ca dao còn xác quyết:
–
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
Thuở
xưa, có một anh chàng nghe nói về Phật, thì thích lắm, bèn quyết tâm đi tìm gặp
Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp lên đường. Sau khi trải qua không
biết cơ man nào là núi sông, thành phố, và gian nguy hiểm trở, chàng ta vẫn
chưa gặp được Phật giống như hình dạng trong Kinh đã diễn tả: Thân Phật sắc
vàng, cao một trượng sáu, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào
quang chói sáng.
Ngày
kia, tại một sườn núi nọ, anh chàng tình cờ gặp một cụ già râu tóc bạc phơ, cốt
cách siêu phàm. Mừng quá, anh chàng khẩn khoản:
–
Thưa cụ, cụ có biết Phật đang ngụ ở đâu không? Xin chỉ dùm cho con với.
Ông
lão mĩm cười:
–
Ồ! Chỗ nào mà không có Phật. Trên quãng đường vừa qua, chả lẽ con không gặp
được Ngài ư?
–
Thưa cụ, trên đường đi con đã từng gặp vô số người, nhưng đều là hạng phàm phu
tục tử cả. Con chưa từng thấy người nào có được vài tướng tốt như trong kinh đã
mô tả về Phật cả.
Ông
cụ cười ha hả:
–
Cháu ngốc thật, cháu không biết rằng cái thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và
tám mươi vẻ đẹp đó người Ấn Độ đã đốt thành tro và chia nhau xây tháp thờ cúng
cả rồi ư?
–
Thế thì Phật chết rồi sao?
–
Hiện giờ Đức Phật đang phân thân ở khắp mọi nơi. Ngài cũng mang thân tốt và xấu
như chúng sinh vậy. Con có còn muốn gặp Ngài nữa không?
–
Thưa, dù bất cứ với hình dáng nào, nếu đích thật là Ngài thì con vẫn vô cùng
khát mong.
–
Vậy thì, để ta mách nước cho con nhé. Con hãy quay trở về và trên đường, nếu
con gặp người nào mang guốc trái ở chân phải, guốc phải ở chân trái, thì người
đó chính là một hóa thân của Phật. Hãy cúng dường vị Phật ấy như trong kinh đã
dạy.
Chàng
trai hối hả quay trở về. Suốt quãng đường dài, chàng không gặp Đức Phật nào mà
hình dạng như cụ già diễn tả. Chán nản, chàng đi luôn về nhà. Trời đã khuya, bà
mẹ còn chong đèn ngồi đợi con. Nghe tiếng gọi cửa, bà mừng quá, quờ quạng tìm
đôi guốc rồi chống gậy tất tả ra mở cửa. Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt
chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân phải, guốc
phải sang chân trái. Chàng ôm chầm lấy mẹ nghẹn ngào:
–
Ôi Đức Phật yêu quí của con.
Sau
cùng, là anh chị em với nhau, chúng ta có bổn phận phải yêu thương, hoà thuận
và giúp đỡ lẫn nhau.
Người
ta thường bảo: Chuyến đò nên nghĩa, miếng trầu nên duyên. Trong cuộc sống, có
những người chúng ta mới chỉ gặp nhau một vài lần, trao đổi với nhau đôi ba câu
chuyện, thế mà tình nghĩa đã mặn nồng, huống nữa là đối với anh chị em ruột
thịt, là những người cùng sống với chúng ta dưới một mái nhà, cùng chia sẻ với
chúng ta những nỗi vui buồn, cũng như cùng có chung một dĩ vãng. Vì thế, chúng
ta càng phải yêu thương nhau hơn.
Hơn
thế nữa, anh chị em còn có chung một ngồn gốc, được sinh ra bởi cùng một
cha một mẹ, cùng mang trong mình cùng một dòng máu. Chính vì thế tục ngữ đã
diễn tả: Một giọt máu đào còn hơn một ao nước lã. Nếu chúng ta không yêu thương
những người cận kề với chúng ta, nếu chúng ta không yêu thương chính thân xác
chúng ta, chính máu huyết chúng ta, thì làm sao có thể yêu thương những kẻ xa
lạ.
Tuy
nhiên, trong cuộc sống, chúng ta thấy không thiếu gì những người anh em với
nhau, chỉ vì đồng tiền cắc bạc, hàng rào bờ dậu…đã đi tới chỗ giận hờn và thù
oán, không còn thèm nhìn mặt nhau nữa.
–
Anh em khinh trước, làng nước khinh sau.
Nếu
anh em trong gia đình mà không bảo ban, đùm bọc được nhau, thì làm sao có thể
khuyên nhủ và nêu gương cho những người chung quanh.
Ông
bố nọ trên giường hấp hối, đã gọi những người con của mình đến và trao cho mỗi
người một chiếc đũa và bảo:
–
Các con hãy bẻ đi.
Ai
nấy đều bẻ được chiếc đũa một cách dễ dàng. Sau đó, ông trao cho mỗi người một
bó đũa và cũng bảo:
–
Các con hãy bẻ đi.
Ai
nấy đều cố gắng hết mình, nghiến răng trợn mắt, vận dụng hết mọi nội công, mà
cũng chẳng tài nào bẻ nổi bó đũa. Từ sự việc trên, ông đã khuyên nhủ:
–
Bố sắp sửa ra đi và trở về cùng ông bà tổ tiên, lời nói sau cùng bố muốn trối
lại cho các con, đó là các con hãy yêu thương, đoàn kết và đùm bọc lẫn nhau.
Chính nhờ sự yêu thương, đoàn kết và đùm bọc ấy, các con sẽ tạo được sự hòa
thuận giữa các con đã đành, mà hơn thế nữa, các con còn tạo được sức mạnh để
không một ai có thể chèn ép, bóc lột các con được.
Hình
ảnh bó đũa cũng là hình ảnh mà mỗi người chúng ta cần phải khắc ghi. Nếu từ
trước đến giờ, chúng ta đã có những tị hiềm, những giận hờn, thì hãy mau mắn
xóa bỏ và làm hòa cùng nhau. Là những người anh chị em cùng một cha một mẹ,
cùng một cội nguồn, chúng ta phải biết thực sự yêu thương, hoà thuận và giúp đở
lẫn nhau, bởi vì:
–
Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Để
kết luận, gã xin mượn lại câu chuyện về thánh Simon Cột. Ngài sống vào thế kỷ
thứ 5 tại Syrie, nổi tiếng là một người thánh thiện và khổ hạnh. Ngài làm một
cái chòi nhỏ trên đầu một cây cột và sống ở đó suốt 35 năm trời. Sau khi ngài
chết, để nêu cao mẫu gương thánh thiện và khổ hạnh của ngài, Giáo Hội đã tôn
phong ngài, và người ta thường gọi ngài với biệt danh là Simon Cột.
Nghe
xong câu chuyện này, một em nhỏ như được thôi thúc muốn bắt chước sự thánh
thiện và lối sống khắc khổ của ngài. Thế là khi về đến nhà, em chồng những
chiếc ghế đẩu trên một cái bàn, rồi leo lên. Giữa lúc đang loay hoay như thế,
thì mẹ em nhìn thấy, bà đã la mắng và cấm không cho em được leo lên và bà nói
tiếp:
–
Con ơi, làm thánh ở trong nhà cũng khó lắm con à.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét