Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2019

MÁU và NƯỚC từ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU


MÁU  và  NƯỚC  từ  THÁNH  TÂM  CHÚA  GIÊSU
Tue, 28/05/2019 - Trầm Thiên Thu



Trong Bữa Tiệc Ly, tông đồ Gioan – người môn đệ “được Chúa Giêsu yêu quý” – đã được tựa đầu vào Thánh Tâm Chúa Giêsu (Ga 13:23). Chỉ vài giờ sau đó, ở bên chân Thập Giá, Gioan lại là người chứng kiến Thánh Tâm Chúa Giêsu bị đâm thâu. Thánh Gioan xác định rõ ràng: “Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra” (Ga 19:34). Các giáo phụ thời kỳ đầu đã hiểu Máu và Nước đó theo nghĩa bí tích, là Máu trong Bí tích Thánh Thể và Nước trong Bí tích Thánh Tẩy. Các Bí Tích và Giáo Hội phát sinh từ vết thương nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh Augustinô liên tưởng rằng Bà Eva được tạo nên từ chiếc xương sườn của Ông Adam khi ông chìm vào “giấc ngủ mê” (St 2:21).

Giáo Hội cũng vậy, Giáo Hội được phát sinh từ cạnh nương long của Đức Kitô và là Hiền Thê của Ngài. Nhờ Nước trong Bí tích Rửa Tội và Máu trong Bí tích Thánh Thể mà Giáo Hội được sinh ra và được duy trì. Giáo Hội tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, bởi vì “Ngài cho phép tội lỗi của chúng ta đâm thâu Thánh Tâm Ngài”, là biểu tượng của Thánh Tình dành cho nhân loại (GLCG số 2669).



Thông điệp “Haurietis Aquas” (Hân Hoan Múc Nước) năm 1956, nói về lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, mở đầu bằng câu trích dẫn sách ngôn sứ Isaia về nước ban sự sống của Đấng Mêsia chịu đau khổ. Ngôn sứ Isaiah nói: “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ” (Is 12:3) và “đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây!” (Is 55:1). Các ngôn sứ khác – như Giôen, Êdêkien, và Dacaria – cũng nói về loại nước này của Đấng Cứu Độ. Chính Chúa Giêsu trích dẫn lời các tiên tri nói rằng từ nơi Ngài “tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7:38).


Nước trường sinh là gì? Các giáo phụ thời Giáo Hội sơ khai đã nhận biết nước này chảy ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu là ân sủng từ các bí tích. Đó là biểu tượng về việc trao ban Chúa Thánh Thần. Nước hằng sống là nước rửa tội, qua đó Chúa Thánh Thần thanh tẩy tội lỗi của chúng ta và đến cư ngụ trong chúng ta. Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng chúng ta phải được tái sinh bởi “nước và Thánh Thần”, cũng như Ngài đã nói với phụ nữ Samari tại giếng nước ngày xưa: “Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4:14).


Không phải là ngẫu nhiên mà Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu xuất hiện trong lịch Phụng Vụ sau Lễ Ngũ Tuần, tưởng nhớ tác phẩm của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần nhiệm xuất (proceed) từ chiều sâu thẳm của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu cũng là ngày thứ sáu đầu tiên trong Tuần Bát Nhật Lễ Mình Máu Chúa (Corpus Christi), cử hành sự hiện diện thật của Mình Máu Thánh Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Đó là điều phù hợp, bởi vì Thánh Tâm Chúa Giêsu là thành phần trong Thánh Thể của Ngài. Theo nghĩa đó, khi chúng ta đón nhận Bí tích Thánh Thể, chúng ta cũng đón nhận Thánh Tâm Chúa Giêsu (Tông thư Haurietis Aquas, số 122). Máu tuôn trào từ Thánh Tâm Chúa Giêsu bị đâm thâu trên đồi Can-vê là “Máu của giao ước mới” mà Chúa Giêsu đã mở ra tại Bữa Tiệc Ly, chính bữa tiệc mà chúng ta tham dự mỗi thánh lễ.


Hồi thế kỷ 17, đức tin lộn xộn, nhất là ở Pháp, khi phải xử lý cuộc Cải Cách Tin Lành và tà thuyết Gian-xen (*). Thuyết này từ chối ý muốn tự do của con người, cho rằng chỉ những người được Thiên Chúa tiền định mới nhận được ơn thánh hóa. Thuyết này ngụ ý tính khắt khe luân lý, kết quả là nhiều người đã từ chối rước lễ bởi vì họ cảm thấy tội lỗi. Đó là trái ngược với nền tảng của thế giới quan hạn hẹp này, giới hạn ân sủng bí tích với một số người, và rồi Chúa Giêsu đã hiện ra với Thánh Margaret Maria Alacoque, Ngài nói: “Hãy nhìn Thánh Tâm Ta đây, Thánh Tâm Ta yêu thương quá đỗi, đến nỗi không còn lại gì, thậm chí còn kiệt quệ để chứng minh tình yêu thương của Ta dành cho họ”.
  
Chúa Giêsu cho thấy rằng Ngài mở hết lòng mình, không chỉ cho một số người, mà cho hết mọi người, và Ngài muốn mọi người đón nhận Thánh Thể Ngài thường xuyên. Ngài muốn rằng ngày lễ kính Thánh Tâm Ngài được thiết lập, và mọi người sẽ rước lễ vào các thứ sáu đầu tháng, đồng thời thường xuyên làm Giờ Thánh. Thật vậy, Chúa Giêsu đã canh tân đời sống Giáo Hội, làm sống động trái tim của các tín hữu với việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.


Chúa Giêsu cũng đã bày tỏ nhiều lời hứa qua Thánh nữ Margaret Mary dành cho những người tôn sùng Thánh Tâm Ngài. Trong số đó có lời hứa ban an bình cho các gia đình, an ủi họ khi gặp khó khăn, ban cho họ những ơn cần thiết, giúp họ sốt sáng hơn và hoàn thiện hơn qua đức tin, đồng thời ghi khắc tên họ vào Thánh Tâm Ngài mãi mãi. Trong lá thư tháng 5-1688, Thánh Margaret Mary đã viết về “Lời Hứa Quan Trọng” mà Chúa Giêsu đã nói với bà. Chúa Giêsu nói: “Ta hứa với con rằng tình yêu mãnh liệt của Ta sẽ ban cho những người rước lễ vào các ngày thứ Sáu đầu tháng, trong chín tháng liên tục, được ơn hối cải trong giờ lâm tử”. Lời hứa tuyệt vời biết bao, nhưng chúng ta nên nhớ rằng đây không là “sự bảo đảm tự động” (automatic guarantee) được vào Nước Trời (nghĩa là đừng ảo tưởng rằng cứ “khoán trắng” đủ chín tháng là xong, rồi muốn sống sao cũng được lên Thiên Đàng – chú thích của người dịch). Chúng ta nên phân biệt với dạng mê tín (superstition) liên quan điều này. Lm James Kubicki, Dòng Tên, giám đốc chương trình Tông đồ Cầu nguyện (Apostleship of Prayer), cho biết rằng điều này “không có phép thần thông nhưng có hệ quả tự nhiên trong đời sống kết hiệp với Thánh Tâm Chúa Giêsu”. Chúng ta không được mời gọi mê tín dị đoan, mà được mời gọi sùng kính.



Lòng sùng kính Thánh Tâm được mô tả đầy đủ nhất qua lòng tôn kính của chúng ta đối với Giáo Hội. Máu và Nước trong Bí tích Thánh Thể và Bí tích Thánh Tẩy làm cho chúng ta nên mới. Thần Khí Ngài cư ngụ trong chúng ta để trao ban sự sống đời đời. Đây là cách hoàn tất lời tiên tri của ngôn sứ Êdêkien. Kinh Thánh cho biết: “Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và đặt thần khí mới vào lòng chúng. Ta sẽ lấy khỏi mình chúng trái tim chai đá và ban cho chúng một trái tim bằng thịt, để chúng đi theo các thánh chỉ của Ta và tuân giữ cùng thi hành các quyết định của Ta. Lúc ấy, chúng sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng” (Ed 11:19-20). Trong chúng ta cũng vậy. Trái tim của chúng ta được thích nghi và được tái tạo khi sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.


Khi bị treo trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã kêu lên: “Tôi khát” (Ga 19:28). Nhìn qua lăng kính Kitô giáo, sự khát của Chúa Giêsu là khao khát cứu các linh hồn. Chúng ta có thể theo cách thực tế để an ủi Thánh Tâm Chúa Giêsu và thỏa mãn cơn khát của Ngài bằng cách cảnh báo đền tội và tôn sùng Thánh Tâm Ngài (Tông thư Miserentissimus Redemptor – Đấng Cứu Chuộc Rất Yêu Thương, số 13). Bí tích Thánh Tẩy và Bí tích Thánh Thể biến đổi chúng ta, những người dự phần vào Nhiệm Thể Đức Kitô. Chúng ta được tẩy sạch nhờ nước ban sự sống của Chúa Giêsu, và chúng ta được biến đổi nhờ Mình Máu Thánh Chúa. Về điều này, Thánh Gioan tông đồ là ví dụ điển hình, chàng trai trẻ này đã tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu, được nghe nhịp đập của Thánh Tâm, và Chúa Giêsu cũng làm cho mọi thụ tạo nên mới như vậy.

BRIAN KRANICK

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

(*) Jansenism: Thuyết của thần học gia Công giáo Cornelis Jansen (1585–1638), khoảng 1656-1657, dựa trên thuyết tiền định luân lý (moral determinism). Các nguyên tắc thần học của Cornelis Jansen nhấn mạnh sự tiền định, phủ nhận ý chí tự do, cho rằng bản chất con người hư hỏng, không thể tốt lành, còn Chúa Kitô chỉ chết cho những người được chọn chứ không chết cho mọi người. Giáo hội Công giáo kết án thuyết này là lạc giáo. Thuyết này bị những người cải cách trong giới giáo sĩ, tu sĩ và học giả Công giáo Âu châu Tây phương phản đối, và bị kết án là tà thuyết. Bị ảnh hưởng các tác phẩm của thánh Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism (phủ nhận tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh Augustinô về sự tiền định và sự cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công giáo La Mã coi là gần với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The Augustinus của ông năm 1642. Sau khi Jansen chết năm 1638, những người theo ông đã lập cơ sở tại tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters (1656–1657). Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người theo Jansen bắt đầu lập Giáo hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét