NGHIÊM - PHỤ, HAY TỪ - PHỤ, HIỀN - PHỤ?
Nhân ngày Father’s Day, tại
sao chúng tôi không dùng “TỪ-PHỤ”, hay “HIỀN-PHỤ” mà lại chủ trương dùng
NGHIÊM-PHỤ, thay vì TỪ-PHỤ, HAY HIỀN-PHỤ như thường thấy? Là vì:
a- Hán Việt từ-điển
giải thích:
* NGHIÊM = chặt chẽ, cung
kính, đoan trang; sự ngay ngắn, uy nghiêm, tiếng gọi tôn người cha như gia
nghiêm, lệnh nghiêm
* TỪ = Tiếng tôn xưng mẹ.
Cha gọi là nghiêm, mẹ gọi là từ. Như: gia từ = mẹ tôi, từ mẫu = mẹ hiền.
* HIỀN = Tốt lành, có tài
đức. Như: hiền thê lương mẫu = vợ lành mẹ tốt; hiền thần = bề tôi tài đức.
* HẬU = dày dặn; không
khe khắt, tốt lành
b- Từ điển chuẩn của Hội Khai Trí Tiến Đức cũng giải thích
tương-tự:
Nghiêm là tiếng gọi tôn
người cha, ví dụ: Nhờ trời nghiêm-từ tôi còn mạnh cả; Nghiêm-phụ = người cha
nghiêm, vd: có nghiêm phụ tất có hiếu-tử
c-
Quả vậy, người cha là hình ảnh của sự uy nghiêm, nghiêm nghị,
nói chung là sự cứng rắn trong khi người me thì yếu mềm. Cả hai đều tràn đầy
lòng thương con, nhưng mỗi người có cách thương khác nhau, nếu người cha cũng yếu
mềm như người mẹ, thì làm sao giữ được kỷ cương.
Con
gái khi về nhà chồng, giã từ cha mẹ:
"Lạy cha ba lạy một
quỳ
Lạy mẹ bốn lạy, con đi lấy
chồng."
Lạy cha lạy mẹ là để thể
hiện tình yêu thương. Con lạy mẹ những bốn lạy mà chỉ lạy cha ba lạy, nhưng con
dành thêm cho cha một quỳ là để tôn kính quyền cha. Nghiêm phụ và từ mẫu là thế.
Cha cho con những ước mơ tuyệt-vời kỳ-vĩ,
Cha giúp con xong phận-sự
hoàn-mĩ lạ-lùng!
Cha lèo-lái gia-đình hết
tài-năng tâm-trí,
Dưới bóng cả cây cao, con
hoan-hỷ vô cùng.
Cha còn cho con tình yêu
muôn thế-kỷ,
Nối gót cha, con xin hứa
chẳng hề ngưng.
Nhắc tới dụ ngôn "Đứa
Con Hoang Đàng" trong Thánh Kinh, người ta thường tôn vinh là "người
cha nhân từ", cũng như ta thường vinh danh Chúa là "Đấng nhân từ".
Chúng tôi thiển nghĩ chuẩn xác hơn, nên gọi là NHÂN HẬU:
"Chúa là Đấng từ bi
nhân hậu
Người chậm giận và giàu
tình thương"
(TV 103, 8)
Thiên Chúa, hay ngưòi cha,
nhân từ là hàm ý "đầy lòng thương xót, sẵn lòng tha thứ, khoan dung",
nhưng cũng cứng rắn công minh không mềm yếu, và chẳng ngần ngại quở trách, thẳng
tay trừng phạt. Người cha trong dụ ngôn thấy người con thứ sám hối trở về, tuy
xót thương tha thứ rộng lòng đón tiếp đãi ngộ, nhưng lại nghiêm khắc quở trách
người anh cả đã sống cùng cha bấy lâu nay, nhưng lại ganh tỵ suy bì, giận dữ với
em mình. Đấy là công minh, là nghiêm nghị,
là nhân hậu.
Vả chăng điều này cũng
đúng với Việt Triết Âm Dương Dịch Học: người cha là biểu tượng của DƯƠNG, của mặt
trời; người mẹ biểu tượng của ÂM, của mặt trăng, cả hai tuy khác nhau nhưng bổ
sung cho nhau.
Phản hồi bài viết của
chúng tôi cho tập San Chân Lý số tháng 8 năm 2006, tán đồng về cách sử dụng từ
NGHIÊM-PHỤ, một độc giả viết:
"Phần đông người viết
hay dùng chữ HIỀN phụ (để đối với chữ HIỀN mẫu). Thật ra dùng như vậy không chỉnh.
Các bậc túc Nho khi nói về Cha mình thường nói Gia NGHIÊM tôi dạy..., hay Gia
Tiên NGHIÊM tôi đã... Ngày nay cũng có người dùng chữ TỪ Phụ, chữ này cũng
không thích đáng lắm ngoại trừ Phật tử dùng để chỉ về Đức Phật (qua Tứ Vô Lượng
Tâm: Từ, Bi, Hỉ, Xả). Ngôn ngữ nói lên Văn Hóa: văn hóa Á Đông thì TÌNH YÊU Cha
và Mẹ cho con cái đều là tình yêu nhưng phương cách biểu lộ không giống nhau
chính vì đó thật là hạnh phúc khi con cái có đủ tình thương yêu của Cha và Mẹ,
hai tình yêu này hài hòa, bổ túc cho nhau. (Nguyễn Đình Phúc)"
Từ ấy chúng tôi thêm xác
quyết khi sử dụng từ NGHIÊM PHỤ và dành tiếng Hiền, Từ cho bậc hiền mẫu, từ mẫu
Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét