06/2023 - Lại Thế Lãng
Mầu nhiệm cầu thay nguyện giúp
The Word Among Us – Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Gần 130 năm trước, vào
tháng 3/1887, một tên trộm vặt tên là Henri Pranzini đã sát hại dã man ba phụ nữ
ở Paris. Bản chất của tội ác, cùng với thực tế là một trong những nạn nhân là một
gái gọi giá cao, đã khiến cuộc điều tra trở thành một tin tức nóng bỏng trên khắp
nước Pháp. Phiên tòa chỉ diễn ra bốn ngày, và Pranzini bị kết tội và bị kết án
tử hình bằng máy chém.
Trong suốt quá trình tố tụng,
Pranzini không hề có dấu hiệu hối hận, một sự thật thu hút sự chú ý của một cô
gái trẻ ở cách đó hơn một trăm dặm. Cô rất cảm động khi nghĩ rằng tên tội phạm
này có thể chết mà không ăn năn đến nỗi cô quyết định ăn chay và cầu nguyện cho
sự hoán cải của anh ta. "Tôi muốn bằng mọi giá để giữ cho anh ta không rơi
vào địa ngục, và để thành công, tôi đã sử dụng tất cả các phương tiện có thể tưởng
tượng được, cảm thấy rằng bản thân tôi không thể làm gì được. Tôi đã dâng lên
Chúa tất cả những công lao vô hạn của Chúa chúng ta."
Vào ngày hành quyết, một
điều tuyệt vời đã xảy ra. Khi Pranzini đến gần đoạn đầu đài, anh quay sang vị
tuyên úy đi cùng, xin một cây thánh giá và hôn lên tượng chịu nan ba lần. Sau
đó, anh ta bị xử tử.
Ngày hôm sau, cô gái trẻ
đọc tin về hành động sám hối của Pranzini, và cô đã ngây ngất. "Lời cầu
nguyện của tôi đã được chú ý tới," cô viết. Cô gái, Têrêsa thành Lisieux,
cuối cùng đã vào tu viện, phát triển một đời sống cầu nguyện sâu sắc, được
phong thánh, và sau đó được nâng lên làm Tiến sĩ Hội thánh.
"Đứa con đầu lòng của
tôi." Những lời cầu nguyện và ăn chay của Têrêsa có phải là công cụ trong sự
hối cải của Pranzini không? Cô chắc chắn nghĩ như vậy. Kinh nghiệm của cô với
Pranzini đã thuyết phục cô cầu bầu cho những người cần sự can thiệp của Chúa.
Như cô đã nói, Pranzini là "đứa con đầu lòng" của cô, là đứa con đầu
tiên trong số nhiều người được ban phước bởi sự câu thay nguyện giúp của cô.
Têrêsa cho chúng ta thấy
rằng cầu nguyện chuyển cầu không chỉ dành cho bản thân chúng ta hoặc cho những
thời điểm đặc biệt khó khăn. Nó phải là một phần thường xuyên trong bước đi của
chúng ta với Chúa. Mỗi ngày chúng ta có thể cầu thay cho người phối ngẫu, gia
đình, Giáo Hội và thế giới của chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy cam kết cầu nguyện
cho nhu cầu của người khác mỗi ngày. Chúng ta hãy tin rằng không có lời cầu xin
nào là quá nhỏ hoặc không xứng đáng. Và chúng ta hãy tiếp tục thực hành việc ăn
chay cổ xưa khi chúng ta dâng lên lời cầu xin của mình – giống như Chúa Giêsu
đã làm và giống như Têrêsa đã làm.
Ăn chay và cầu thay. Ăn
chay và cầu thay luôn luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Môsê nhịn ăn bốn
mươi ngày trước khi ông nhận được Lề luật (St 34:28). Anna nhịn ăn khi cầu xin
Chúa ban cho bà một đứa con (1 Sm 1:7-8). Chính Chúa Giêsu đã ăn chay trước khi
bắt đầu sứ vụ công khai (Mt 4:1-2). Các trưởng lão của Hội Thánh đang ăn chay
và cầu nguyện thì Chúa Thánh Thần bảo họ dành riêng Phaolô và Banaba cho chuyến
đi truyền giáo đầu tiên của họ (Cv 13:1-2).
Ăn chay là một phần đẹp đẽ
của di sản tâm linh của chúng ta. Nó làm chúng ta khiêm nhường và dạy chúng ta
phụ thuộc nhiều hơn vào Thiên Chúa. Nó dạy chúng ta rằng "Người ta sống
không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt
4:4). Bằng cách tự do chọn từ chối chính mình, chúng ta đang tuyên bố:
"Tôi muốn cởi mở hơn với Chúa." Chúng ta đang nói rằng chúng ta không
muốn tìm thấy sự thỏa mãn chỉ trong ăn uống hay giải trí; chúng ta muốn tìm thấy
niềm vui trong sự hiện diện của Thiên Chúa và được hướng dẫn bởi sự khôn ngoan
và sự quan phòng của Ngài.
Khi chúng ta kết hợp ăn
chay với sự cầu thay nguyện giúp, chúng ta đang trút bỏ những ý tưởng của riêng
mình và mở lòng mình hoàn toàn hơn để nhìn thấy một tình huống hoặc vấn đề từ
quan điểm của Thiên Chúa. Ăn chay làm cho chúng ta mềm dẻo hơn và ít tự định hướng
hơn để Chúa có thể hướng dẫn và sử dụng chúng ta.
Vậy chính xác thì việc
ăn chay ảnh hưởng đến những người chúng
ta đang cầu nguyện cho như thế nào? Chúng ta không hoàn toàn hiểu rõ, nhưng thật
sự có ảnh hưởng. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Khi ăn chay, nên rửa mặt
cho sạch, chải đầu cho thơm, . . . Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín
đáo, sẽ trả lại cho anh." (Mt 6:17, 18). Dường như Thiên Chúa ban thưởng
cho sự ăn chay của chúng ta bằng cách tuôn đổ ơn lành của Ngài trên những người
mà chúng ta đang cầu nguyện cho.
Hãy suy nghĩ về việc sẽ cảm
động như thế nào khi thấy ai đó hy sinh cho người khác. Nó làm mềm lòng bạn và
cũng truyền cảm hứng cho bạn trở nên rộng rãi. Nó tương tự với Thiên Chúa. Như
thể Ngài nhìn thấy sự ăn chay của chúng ta và nói, "Ta rất hài lòng vì con
đang thực hiện sự hy sinh này vì tình yêu. Làm sao Ta có thể không ban phước
cho người mà con đang cầu nguyện cho?"
Có một lý do khác tại sao
chúng ta nên kết hợp việc ăn chay với sự cầu thay. Hãy nhớ lại câu chuyện về
cách các tông đồ không thể giải cứu một chàng trai trẻ khỏi ma quỷ. Chúa Giêsu
nói với họ, “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi.” (Mc 9:29).
Tương tự như vậy, có một số nhu cầu—bệnh tật nghiêm trọng, thất nghiệp, mối
quan hệ tan vỡ, tội trọng—đòi hỏi cả cầu nguyện lẫn ăn chay. Hoặc tình hình quá tuyệt vọng đến nỗi
chúng ta cần phải thực hiện các biện pháp liều lĩnh, hoặc nó quá phức tạp đến nỗi
chúng ta cần phải làm cho mình cởi mở hơn để Chúa có thể dạy chúng ta và sử dụng
chúng ta.
Tại sao Thiên Chúa không
nhậm lời cầu nguyện của tôi? Vẫn còn một câu hỏi chúng ta cần xem xét khi chúng
ta nhận lời kêu gọi cầu thay: Có những lời cầu nguyện dường như không bao giờ
được đáp lại thì sao? Liên quan đến điều này là những câu hỏi lâu đời khác: Tại
sao có quá nhiều đau khổ trên thế giới, đặc biệt là giữa những người đang cố gắng
vâng lời Chúa? Tại sao Thiên Chúa để người tốt chết trẻ? Tại sao Ngài không can
thiệp và chấm dứt tất cả các vụ phá thai hoặc chấm dứt chiến tranh và diệt chủng?
Có phải lời cầu nguyện của chúng ta quá yếu ớt đến nỗi chúng thậm chí không thể
giúp chấm dứt những điều mà mọi người đều đồng ý là sai trái và xấu xa? Nếu muốn
được nhẹ lòng chúng ta có thể đọc các đoạn như Thánh vịnh 13 và sách ngôn sứ
Khabacúc 1: 1-3 để tìm ví dụ về cách ngay cả những người thánh thiện nhất - các
tiên tri và tác giả Thánh vịnh – cũng bối rối trước những câu hỏi này.
Thành thật mà nói, không
có câu trả lời đơn giản cho những câu hỏi này. Nhưng thừa nhận rằng đây là một
mầu nhiệm không nên dẫn chúng ta đến kết luận rằng cầu nguyện chuyển cầu là vô
ích. Nó không nên làm cho chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa quá xa vời để quan tâm
đến chúng ta. Rõ rangThiên Chúa sẽ không sai Con Ngài chết cho chúng ta nếu
Ngài không quan tâm đến chúng ta.
Vô số vị thánh và những
câu chuyện Kinh Thánh nói với chúng ta rằng chúng ta nên luôn luôn cầu nguyện
khi chúng ta đối mặt với những tình huống thử thách. Nhưng các thánh và Kinh
Thánh cũng nói với chúng ta rằng lời cầu nguyện của chúng ta không nên giới hạn
trong việc cầu xin Chúa cất đi một vấn đề khó khăn hoặc đòi hỏi giải pháp mà
chúng ta nghĩ là tốt nhất. Thay vào đó, trong những lời cầu bầu của chúng ta,
chúng ta nên cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta cởi mở với mầu nhiệm về cách
Ngài đang hoạt động trong những tình huống chúng ta đang dâng lên.
Mầu nhiệm ý Chúa. Trong
ngôn ngữ hàng ngày, từ "bí ẩn" thường có nghĩa là một câu đố cần được
giải quyết, như trong một cuốn tiểu thuyết tội phạm hoặc một câu đố ô chữ.
Nhưng đây không phải là loại bí ẩn mà Kinh Thánh nói đến. Trong Kinh Thánh, từ
"mầu nhiệm" nói về kế hoạch cứu rỗi đời đời của Thiên Chúa, một kế hoạch
quá rộng lớn đến nỗi chúng ta không thể nắm bắt được tất cả. Và điều đó có nghĩa là đôi khi chúng ta sẽ phải
tin cậy Thiên Chúa như một đứa trẻ tin cậy cha mình và biết rằng Ngài đang làm
mọi việc vì lợi ích của chúng ta (Rm 8:28).
Vì vậy, khi chúng ta đối
mặt với một tình huống thử thách hoặc tiến thoái lưỡng nan, chúng ta nên cầu
nguyện. Và nếu một giải pháp không đến ngay lập tức, chúng ta nên tiếp tục cầu
nguyện, như người góa phụ kiên trì đã làm. Chúng ta cũng nên cảm thấy tự nhiên
để nói với Chúa một cách trung thực về cảm giác của chúng ta, ngay cả khi chúng
ta cảm thấy tức giận hoặc chán nản. Nhưng đồng thời, chúng ta không bao giờ nên
giới hạn Thiên Chúa hoặc nói với Ngài cách Ngài nên can thiệp! Đôi khi chúng ta
chỉ cần lặp lại những lời của tác giả Thánh vịnh thất vọng đã nói: "Con
tin cậy vào tình thương CHÚA” (Tv 13: 6)
Thay đổi cuộc sống qua sự
cầu bầu. Trong tất cả những lời cầu bầu của chúng ta, dù là cầu bầu cho người bệnh,
chấm dứt chiến tranh hay phá thai, cho Giáo Hội, hoặc cho những người thân yêu
của chúng ta nhận biết Chúa, chúng ta nên cẩn thận đề phòng sự lo lắng. Chúng
ta nên cố gắng làm theo lời khuyên của Thánh Phaolô: "Trong mọi hoàn cảnh,
anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa
những điều anh em thỉnh nguyện” bởi vì khi chúng ta làm như vậy, "bình an
của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em
được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su" (Pl 4: 6, 7).
Đôi khi thật khó tin, những
lời cầu thay của chúng ta có thể thay đổi cuộc sống, giống như lời cầu bầu của
Têrêsa đã thay đổi Pranzini vào phút cuối. Nó có thể không chính xác như chúng
ta mong muốn, nhưng bất cứ khi nào dân Thiên Chúa hướng về Ngài trong lời cầu
nguyện, Ngài làm việc kỳ diệu. Vì vậy, đừng bao giờ để một ngày qua đi mà không
dâng lên những nhu cầu trong trái tim bạn, cả những cuộc khủng hoảng toàn cầu lớn
và những cuộc khủng hoảng cá nhân nhỏ. Ngài là một Thiên Chúa yêu thương, Ngài
sẽ nghe và trả lời chúng ta.
**********
Đức
tin đã giúp tôi sống sót sau bệnh bạch cầu.
Tác giả: Anthony Maranise
– Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Năm đó là năm 1994. Tôi
năm tuổi và ở trong đội bóng đá nhỏ của Trường Công giáo Holy Rosary ở Memphis,
Tennessee. Tôi rất háo hức được thi đấu, nhưng chỉ sau một vài khoảnh khắc ở
trên sân, chân tôi bắt đầu đau nhói và cảm thấy quá nặng, rất khó chạy.
Đươc báo động bởi điều
này và bởi các triệu chứng giống như chứng cảm lạnh dai dẳng của tôi, cha mẹ
tôi đã đưa tôi đến bác sĩ. Ông không tìm thấy gì bất thường. Ba tháng sau, những
vết bầm tím xuất hiện trên chân và đùi của tôi và xét nghiệm máu cho thấy số lượng
bạch cầu của tôi rất cao. Tôi được giới thiệu đến Bệnh viện Nghiên cứu St. Jude
nổi tiếng thế giới ở quê nhà Memphis.
Những ký ức từ chuyến
thăm đầu tiên của tôi đã khắc sâu trong tâm trí tôi: nụ cười của bác sĩ và y tá
khi chào đón chúng tôi ... những bài kiểm tra dường như vô tận ... Sự lặp đi lặp
lại vô tận của tôi về câu hỏi duy nhất trong tâm trí tôi ngày hôm đó: "Khi
nào chúng ta về nhà?" ... Cái nhìn trên khuôn mặt của cha mẹ tôi khi họ xuất
hiện sau khi tham khảo ý kiến với các chuyên gia. Họ vừa biết rằng đứa con duy
nhất của họ bị bệnh bạch cầu nguyên bào lymphô cấp tính, dạng ung thư phổ biến
nhất ở trẻ em.
Còn quá trẻ, tôi chỉ có
thể nói rằng có điều gì đó không ổn. Tuy nhiên, điều này có ý nghĩa gì về mặt
thực tế, tôi bắt đầu cảm nghiệm ngay lập tức. Ngay khi đó, tôi được bắt đầu một
kế hoạch điều trị sẽ đưa tôi trở lại bệnh viện St. Jude để hóa trị tĩnh mạch
vào thứ Ba hàng tuần.
Không thể nào đếm được số
kim tiêm được sử dụng để xét nghiệm máu của tôi trong hai năm rưỡi sau đó—những
liều thuốc tôi nhận được, những giây phút buồn nôn và đau đớn, những lời cầu
nguyện được dâng lên thay cho tôi, hoặc những đêm mất ngủ của cha mẹ, gia đình
và bạn bè của tôi. Nhưng cuối cùng, tất cả những lời cầu nguyện với Chúa Kitô
và Thánh Tađêô (Jude), "bổn mạng của những trường hợp bất khả thi",
đã được trả lời. Vào một ngày nắng đẹp tháng Tư năm 1997, tôi được tuyên bố là
không bị ung thư và vẫn như vậy cho đến ngày nay. Cuộc chiến gian khổ đã kết
thúc.
Chúa ơi, làm sao vậy?
Trong suốt cuộc đời tôi, tôi đã nghe nói, "Thật đặc biệt khi trở thành một
người sống sót sau ung thư." Nhưng tất nhiên, có một yếu tố bí ẩn trong thực
tế là tôi đã sống sót sau căn bệnh ung thư trong khi rất nhiều người khác thì
không. Và vì vậy, ngay cả khi tôi tận hưởng cuộc sống bình thường một lần nữa,
tôi không thể yên lòng với hai câu hỏi lớn: Tại sao Chúa lại cho tôi cơ hội thứ
hai này? Tôi phải làm gì?
Tôi gần mười bốn tuổi khi
tôi bắt đầu thoáng thấy một số câu trả lời. Tôi chợt nhận ra rằng Chúa có thể
kêu gọi tôi phục vụ Ngài bằng cách phục vụ người khác như một nhà giáo dục tôn
giáo. Đức tin và tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa đã được gieo trồng bởi
giáo huấn tôi nhận được trong gia đình tôi: từ cha mẹ và ông bà ngoại, những
người đã dạy tôi cách cầu nguyện, bảo đảm với tôi rằng Chúa Giêsu ở với tôi
trong đau khổ của tôi, và giới thiệu tôi với các thánh, bao gồm cả thánh
Tađêô. Thật là một đặc ân để dẫn dắt người
khác đến gần Chúa hơn, tôi nghĩ. Và bây giờ, bảy năm sau, hy vọng của tôi đã được
thực hiện. Tôi không chỉ có cơ hội chia sẻ đức tin của mình với người khác mà
còn có thể chia sẻ kinh nghiệm của mình về căn bệnh bạch cầu như một cách để
khuyến khích họ tin tưởng vào Chúa.
Thành thật mà nói, tôi
không biết liệu sống sót sau ung thư có khiến tôi trở nên đặc biệt hay không.
Nhưng tôi biết rằng việc suy ngẫm về trải nghiệm của tôi đã mở ra cánh cửa cho
nhiều hiểu biết sâu sắc về đời sống Kitô giáo. Một số trong những suy nghĩ này
có liên quan đến các đức tính của đức tin, hy vọng và tình yêu, và cách chúng
hoạt động cùng nhau.
Đức Tin và Hy Vọng. Khi
chúng ta nói về những người bị ung thư, chúng ta thường nói những điều như,
"Anh ấy đang chiến đấu" hoặc "Cô ấy đang chiến đấu với nó."
Điều này luôn khiến tôi nghĩ về cách Thánh Phaolô thúc giục Timôthê chiến đấu
trong cuộc chiến tốt lành của đức tin (1 Tm 6:12). Đối với bất cứ ai đã bị đẩy
vào cuộc chiến với căn bệnh ung thư - và tất cả những thất bại, đau đớn và thậm
chí đau buồn đi kèm với nó - sự khích lệ của Phaolô có ý nghĩa đặc biệt.
Chính bởi đức tin mà
chúng ta tin vào Chúa Giêsu và có mối quan hệ cá nhân với Ngài. Trong cuộc chiến
chống lại một căn bệnh như ung thư, đức tính này là một mỏ neo trong những khoảnh
khắc đen tối nhất. Tôi nhớ những ngày tôi thực sự nghĩ rằng tôi sẽ chết. Nụ cười
của gia đình và bạn bè mang lại sự an ủi, nhưng sự chắc chắn duy nhất đến từ đức
tin nơi Chúa Giêsu, Đấng đã nói, "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống."
(Ga 11:25). Khi tôi còn trẻ, chân lý này
đã nói với tôi, và tôi cảm nhận được sự bình an lớn lao của Chúa Kitô đi kèm với
chân lý đó.
Tôi cũng đã cảm nghiệm
cách đức tin chung tay với niềm hy vọng, nhân đức "không làm thất vọng"
(Rm 5: 5). Hy vọng củng cố chúng ta để đặt niềm tin vào những lời hứa của Chúa
Giêsu và khao khát Nước Thiên Đàng là hạnh phúc tối hậu của chúng ta. Trong sự
nhìn về phía trước liên tục này, chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa đang đưa
chúng ta đến gần hơn với mục tiêu này và làm việc vì lợi ích lớn hơn của chúng
ta trong mọi hoàn cảnh, bất kể mọi thứ có thể xuất hiện ảm đạm như thế nào.
Và vì vậy, khi những đau
khổ của ung thư dường như không thể chịu đựng được, một cái gì đó sâu thẳm bên
trong thúc đẩy bạn tiếp tục đi tới. Bạn nhận ra rằng bạn sẽ đi đến tận cùng của
nỗi đau – hoặc bởi vì ngày mai sẽ tốt hơn hoặc trong trường hợp xấu nhất, bởi
vì bạn biết rằng tất cả những nỗi buồn trần thế sẽ biến mất một khi bạn nhìn thấy
Chúa Giêsu trong vinh quang của Ngài.
Điều này đã xảy ra với
tôi vào một ngày trong khi tôi đang được điều trị. Do phản ứng dị ứng, hơi thở
của tôi chậm lại một cách đáng báo động khiến các bác sĩ và y tá vội vã đến bên
cạnh tôi. Tôi đã rất sợ hãi, nhưng sau đó là một cảm nghiệm mạnh mẽ nhất của hy
vọng. Khi tôi bắt đầu những gì tôi nghĩ sẽ là những lời cầu nguyện cuối cùng của
tôi trên trái đất này, tôi cảm thấy một sự tin tưởng sâu sắc vào sự quan phòng
của Thiên Chúa, cùng với một ước muốn tha thiết để nhìn vào đôi mắt yêu thương
của Chúa Kitô. Hy vọng đó nâng đỡ tôi
cho đến khi tôi ổn định và mối đe dọa kết thúc.
Được tạo ra để yêu
thương. Kinh Thánh nói với chúng ta rằng "Thiên Chúa là tình yêu" (1
Ga 4:8), và sự hy sinh của Chúa Giêsu trên thập giá minh họa hoàn hảo ý nghĩa của
tình yêu đó: Đó là đặt lợi ích của người khác lên trên lợi ích của chính bạn.
Tôi tin rằng tôi sẽ thua trong cuộc chiến chống lại bệnh bạch cầu nếu không phải
vì cách gia đình tôi thể hiện với tôi loại tình yêu này.
Trong mỗi khoảnh khắc đau
đớn của việc hóa trị, khi tôi vật lộn với cơn buồn nôn dữ dội hoặc đau quằn quại,
cha mẹ hoặc ông bà của tôi đã ở đó để xoa dịu tôi bằng một tấm khăn lau mát, một
miếng đệm sưởi ấm và những lời an ủi và động viên nhẹ nhàng. Liên tục, tôi nghe
thấy: "Cha mẹ yêu thương con" và "Ông bà đang cầu nguyện cho
con," và "Chúng ta có thể làm gì để giúp con cảm thấy tốt hơn?"
Gia đình tôi có thể dành phần lớn sự chăm sóc tôi cho các y tá, nhưng thay vì
nghĩ về bản thân, họ đã nghĩ về tôi. Thật là tình yêu kỳ diệu!
"Con trai ông đã
nhìn thấy dung nhan của Chúa", một linh mục từng nói với cha tôi. Tôi tin
cha nói đúng. Tất cả chúng ta đều được tạo dựng theo hình ảnh và dung mạo của
Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta được kêu gọi để chia sẻ và lớn mạnh trong các đặc
tính của Chúa Kitô. Nếu "Thiên Chúa là tình yêu" tôi chắc chắn đã
nhìn thấy Ngài qua mọi người đã thể hiện sự cho đi vị tha của Chúa Giêsu trong
cách họ chăm sóc tôi. Bây giờ đến lượt tôi bày tỏ khuôn mặt của Thiên Chúa cho
người khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét