Tóm lược tông huấn Amoris Laetitia
(Sat,
09/04/2016 - Vũ Văn An)
Không phải
là chuyện tình cờ khi Niềm Vui Yêu Thương (NVYT), tức tông huấn hậu thượng hội
đồng về Tình Yêu Gia Đình, đã được ký vào ngày 19 tháng Ba, ngày lễ trọng kính
Thánh Giuse. Tông huấn này tổng hợp các kết quả của hai Thượng Hội Đồng về gia
đình do Đức Giáo Hoàng Phanxicô triệu tập trong các năm 2014 và 2015. Tông huấn
rất hay trích dẫn các phúc trình sau cùng của hai thượng hội đồng này; các văn
kiện và giáo huấn của các vị tiền nhiệm của ngài; và nhiều bài giáo lý của
chính ngài về gia đình. Thêm vào đó, cũng như các văn kiện giáo huấn trước đây,
Đức Giáo Hoàng cũng sử dụng các đóng góp của nhiều hội đồng giám mục khắp thế
giới (Kenya, Úc, Á Căn Đình…) và trích dẫn nhiều nhân vật tiếng tăm như Martin
Luther King và Erich Fromm. Ngài còn trích dẫn cả cuốn phim Babette’s Feast để
minh họa ý niệm cho không (gratuity).
Dẫn
Nhập (1-7)
Tông Huấn
đáng lưu ý về bề dầy và chi tiết của nó. 325 đoạn của nó được phân chia thành 9
chương. Bẩy đoạn dẫn nhập đã trình bầy một cách đơn giản tính phức tạp của một
chủ đề hiện đang rất cần được học hỏi thấu đáo. Các can thiệp của các nghị phụ
Thượng Hội Đồng đã tạo nên một “viên ngọc
nhiều mặt” (NVYT 4), một đa diện qúy báu, mà ta phải duy trì giá trị của
nó. Nhưng Đức Giáo Hoàng cảnh giác rằng “không
phải mọi cuộc thảo luận về các vấn đề tín lý, luân lý hay mục vụ đều cần được
giải quyết bằng các can thiệp của huấn quyền”. Thực vậy, đối với một số câu
hỏi, “mỗi quốc gia hay miền… có thể tìm
các giải pháp tốt hơn thích đáng với văn hóa của họ và mẫn cảm với các truyền
thống và nhu cầu địa phương của họ. Vì ‘các nền văn hóa, thực ra, hết sức đa
dạng và mọi nguyên tắc tổng quát… cần được hội nhập văn hóa, nếu chúng muốn
được tôn trọng và áp dụng” (NVYT 3). Nguyên tắc hội nhập văn hóa này áp
dụng vào việc phải phát biểu các vấn đề như thế nào và phải đề cập đến chúng ra
sao và, ngoại trừ các vấn đề tín điều đã được huấn quyền Giáo Hội định tín rõ
ràng, không một phương thức nào thuộc loại này có thể “được hoàn cầu hóa”. Trong diễn văn kết thúc thượng hội đồng năm
2015, Đức Giáo Hoàng nói rất rõ ràng rằng: “Điều
xem ra bình thường đối với một giám mục ở một lục địa, có thể bị coi là bất
thường và hầu như gây tai tiếng, hầu như!, đối với một giám mục ở một lục địa
khác; điều được coi là vi phạm một quyền ở một xã hội lại là một qui luật hiển
nhiên và bất khả vi phạm ở một xã hội khác; điều đối với một số người là tự do
lương tâm thì đối với một số khác lại chỉ là hỗn độn đơn thuần”.
Đức Giáo
Hoàng tuyên bố rõ ràng rằng trên hết, chúng ta cần phải tránh việc đặt kề nhau
một cách vô dụng các đòi hỏi thay đổi và việc áp dụng tổng quát các qui luật
trừu tượng. Ngài viết: “các cuộc tranh
luận đang tiếp diễn trong truyền thông, trong một số ấn phẩm và cả giữa các
thừa tác viên của Giáo Hội, diễn biến từ một ước muốn vô độ nhằm thay đổi toàn
diện không cần suy nghĩ hay đặt cơ sở gì cả, tới một thái độ muốn giải quyết
mọi sự bằng cách áp dụng các qui luật tổng quát hay rút ra các kết luận quá
đáng từ những xem xét thần học đặc thù” (NVYT 2).
Chương
Một: “Dưới ánh sáng Lời Chúa” (8-30).
Tiếp
theo lời dẫn nhập nói trên, Đức Giáo Hoàng bắt đầu các suy nghĩ của ngài về
Sách Thánh ở chương thứ nhất, một chương được diễn biến như một bài suy niệm về
Thánh Vịnh 128 (vốn được đọc trong phụng vụ hôn phối của Do Thái cũng như trong
phụng vụ hôn phối của Kitô Giáo). Thánh Kinh “đầy các gia đình, sinh nở, truyện yêu thương và khủng hoảng gia đình”
(NVYT 8). Điều này thúc đẩy ta suy niệm về việc gia đình không phải là một lý
tưởng trừu tượng như thế nào nhưng đúng hơn như một “chuyên nghề” (trade) thực tiễn (NVYT 16), một chuyên nghề được thi
hành với tình âu yếm (NVYT 28), nhưng vốn cũng bị tội lỗi đối chất ngay từ thuở
ban đầu, khi mối liên hệ yêu thương bị biến thành khống chế (xem NVYT 19). Do
đó, Lời Thiên Chúa “không phải là một
loạt các ý niệm trừu tượng mà đúng hơn là nguồn an ủi và đồng hành đối với mọi
gia đình đang trải nghiệm khó khăn hay đau khổ. Vì nó chỉ cho họ mục tiêu cuộc
hành trình của họ…” (NVYT 22).
Chương
Hai: “Các trải nghiệm và thách đố của các
gia đình”
(31-57)
Xây dựng
trên nền Thánh Kinh, trong chương hai, Đức Giáo Hoàng xem xét tình huống hiện
nay của các gia đình. Dù “đặt cơ sở vững
vàng trên tính thực tại” của các trải nghiệm gia đình (NVYT 6), Đức Giáo
Hoàng cũng đã rút tỉa khá nhiều từ các bản tường trình sau cùng của hai thượng
hội đồng. Các gia đình hiện đang đối mặt với nhiều thách đố, từ việc di dân tới
việc ý thức hệ bác bỏ các dị biệt giữa các giới tính (“ý thức hệ phái tính” NVYT 56); từ nền văn hóa tạm bợ tới não
trạng chống sinh nở và tác động của kỹ thuật sinh học đối với lãnh vực sinh đẻ;
từ việc thiếu nhà ở và việc làm tới văn hóa khiêu dâm và lạm dụng vị thành
niên; từ việc không lưu ý tới những người khuyết tật tới việc thiếu kính trọng
người cao niên; từ việc dùng luật pháp tháo bỏ gia đình tới việc dùng bạo lực
chống lại phụ nữ. Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh tới tính cụ thể, vốn là ý niệm then
chốt trong Tông Huấn. Chính tính cụ thể, tính hiện thực và đời sống hàng ngày
đã tạo thành sự dị biệt thực chất giữa “các
lý thuyết” có thể chấp nhận được để giải thích thực tại và “các ý thức hệ” võ đoán.
Trưng dẫn Familiaris
consortio, Đức Phanxicô quả quyết rằng “ta
rất đúng khi tập chú vào các thực tại cụ thể, vì ‘lời kêu gọi và các đòi hỏi
của Thần Khí vang vọng trong các biến cố của lịch sử’ và qua các biến cố này,
‘Giáo Hội cũng được dẫn tới một cái hiểu sâu sắc hơn về mầu nhiệm khôn lường
của hôn nhân và gia đình” (NVYT 31). Ngược lại, nếu ta không chịu lắng nghe
thực tại, ta không thể hiểu được các nhu cầu của hiện tại hay các chuyển động
của Thần Khí. Đức Giáo Hoàng nhận định rằng chủ nghĩa duy cá nhân hung hăng
khiến con người ngày nay khó có thể hiến thân một cách đại lượng cho người khác
(xem NVYT 33). Đây là một bức tranh đáng lưu ý về tình huống hiện nay: “sợ cô đơn và ước muốn ổn định và trung
thành hiện hữu song song với nỗi sợ mỗi ngày một lớn bị lừa vào một mối liên hệ
rất có thể ngăn cản mình đạt được các mục tiêu bản thân” (NVYT 34).
Lòng khiêm
tốn của tính hiện thực giúp ta tránh được việc trình bầy “một lý tưởng thần học quá trừu tượng và hầu như giả tạo về hôn nhân,
quá xa vời so với các tình huống cụ thể và các khả thể thực tiễn của các gia
đình chân thực” (NVYT 36). Chủ nghĩa duy lý tưởng không cho phép hôn nhân
đươc hiểu đúng theo bản chất của nó, tức “ngả
đường năng động để phát triển và hoàn thành bản thân”. Quả không hiện thực
chút nào khi nghĩ rằng các gia đình có thể tự nâng đỡ chính mình “chỉ bằng việc
nhấn mạnh tới các vấn đề tín lý, đạo đức sinh học và luân lý mà thôi, mà không
khuyến khích người ta cởi mở đối với ơn thánh” (NVYT 37). Cho rằng một số
phương thức “tự phê phán” không đủ
đối với kinh nghiệm hôn nhân và gia đình, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh cần phải
dành chỗ cho việc đào tạo lương tâm tín hữu: “chúng ta được kêu gọi đào luyện các lương tâm, chứ không thay thế
chúng” (NVYT 37). Chúa Giêsu đề ra một lý tưởng đầy đòi hỏi nhưng “không bao giờ lại không tỏ lòng cảm thương
và gần gũi đối với tính yếu đuối của các cá nhân như người đàn bà Samaria hay người đàn bà bị bắt quả tang ngoại tình”
(NVYT 38).
Chương Ba:
“Nhìn lên Chúa Giêsu: ơn gọi của gia
đình” (58-88)
Chương thứ
ba dành cho việc bàn tới một số yếu tố chủ yếu trong giáo huấn của Giáo Hội về
hôn nhân và gia đình. Chương này quan trọng vì 30 đoạn của nó mô tả xúc tích ơn
gọi của gia đình theo Tin Mừng và như Giáo Hội đã quả quyết xưa nay. Trước hết,
nó nhấn mạnh tới các chủ đề bất khả tiêu, bản chất bí tích của hôn nhân, việc
truyền sinh và giáo dục con cái. Gaudium et Spes của Vatican II, Humanae
Vitae của Đức Phaolô VI, và Familiaris Consortio của Đức Gioan
Phaolô II đã được trưng dẫn rất nhiều.
Chương này
cung cấp một cái nhìn bao quát và đụng tới cả các “tình huống bất toàn” nữa. Thực thế, chúng ta có thể đọc thấy “ ‘việc biện phân sự hiện diện của các hạt
giống Lời Chúa’ trong các nền văn hóa
khác (xem Ad Gentes 11) cũng có
thể áp dụng vào thực tại hôn nhân và gia đình. Song song với hôn nhân tự nhiên
đích thực, các yếu tố tích cực quả có hiện hữu trong các hình thức hôn nhân tìm
thấy nơi các truyền thống tôn giáo khác’, dù có lúc khá mù mờ” (NVYT 77).
Suy tư này cũng bao gồm “các gia đình bị
thương tổn”; về các gia đình này, Đức Giáo Hoàng đã trích dẫn Bản Tường
Trình Sau Cùng của Thượng Hội Đồng năm 2015 để nói rằng “luôn cần phải nhớ nguyên tắc tổng quát này” ‘các mục tử phải biết
rằng, vì chân lý, các ngài buộc phải thi hành việc biện phân các hoàn cảnh một
cách thận trọng’ (Familiaris Consortio, 84). Mức độ trách nhiệm không như nhau trong mọi trường hợp và có thể
có các nhân tố khiến khả năng đưa ra quyết định bị hạn chế. Do đó, dù quả quyết
giáo huấn của Giáo Hội cách rõ ràng, các mục tử phải tránh các phán đoán không
đếm xỉa gì tới tính phức tạp của các hoàn cảnh đa dạng, và các ngài phải lưu ý,
nhất thiết phải lưu ý tới việc người ta trải nghiệm ra sao và chịu đựng thế nào
các buồn phiền do hoàn cảnh của họ gây ra” (NVYT 79).
Chương
Bốn: “Tình yêu trong hôn nhân” (89-164)
Chương bốn
bàn về tình yêu trong hôn nhân, điều mà nó soi sáng bằng Bài Ca Tình Yêu của
Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô 13:4-7. Tiết mở đầu này là
một giải thích công phu, tập chú, nhiều linh hứng và thơ mộng đối với bản văn
của Thánh Phaolô. Nó là một sưu tập gồm nhiều đoạn văn ngắn nhằm mô tả một cách
thận trọng và đầy âu yếm tình yêu nhân bản bằng những hạn từ hoàn toàn cụ thể.
Giá trị nội quan tâm lý của lời giải thích này quả là tuyệt vời. Những tầm nhìn
tâm lý thấu suốt đã được đưa vào thế giới xúc cảm của vợ chồng, cả tích cực lẫn
tiêu cực, và cả chiều kích gợi tình của tình yêu nữa. Đây quả là một đóng góp
cực kỳ phong phú và có giá trị vào đời sống hôn nhân Kitô Giáo, chưa hề có
trong các văn kiện giáo hoàng trước đây.
Tiết này
vắn vỏi vượt ra ngoài việc bàn một cách rộng dài, sâu sắc tới kinh nghiệm hàng
ngày của tình yêu hôn nhân, điều mà Đức Giáo Hoàng từ khước, không muốn phán
đoán dựa vào các tiêu chuẩn lý tưởng: “không
nên đặt lên hai con người hữu hạn gánh nặng khủng khiếp phải lặp lại một cách
hoàn hảo sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, vì hôn nhân, trong tư cách dấu
chỉ, bao hàm ‘một diễn trình năng động…, một diễn trình từ từ diễn tiến với
việc hội nhập tiệm tiến các ân ban của Thiên Chúa” (NVYT 122). Mặt khác,
Đức Giáo Hoàng mạnh mẽ nhấn mạnh sự kiện này: do chính bản chất của nó, tình
yêu vợ chồng vốn xác định ra các người phối ngẫu trong một sự kết hợp hết sức
bao trùm và lâu dài (NVYT 123), chính trong sự “pha trộn vui hưởng và đấu tranh, căng thẳng và thư thái, đau đớn và
khuây khỏa, thỏa mãn và ham muốn, bực dọc và khoan khoái” ấy (NVYT 126), mà
hôn nhân đã được lập thành.
Chương này
kết thúc bằng một suy tư rất quan trọng về “việc
biến đổi của tình yêu” vì “quãng đời
dài hơn hiện nay có nghĩa: các mối liên hệ gần gũi và độc chiếm hẳn phải kéo
dài tới 4, 5 hay ngay cả 6 thập niên; thành thử, quyết định lúc ban đầu hẳn
phải luôn được làm mới trở lại” (NVYT 163). Khi vẻ bề ngoài biến đổi, sự
lôi cuốn yêu thương tuy không giảm nhưng thay đổi khi thèm muốn tính dục, với
thời gian, có thể biến đổi để chỉ còn là ước muốn được ở với nhau và tương trợ
nhau: “Không hề có bảo đảm nào là chúng
ta sẽ cảm nhận như nhau suốt đời. Ấy thế nhưng, nếu cặp vợ chồng nào có thể
nghĩ ra được một dự án sống chung lâu dài, họ vẫn có thể yêu thương nhau và
sống với nhau như một, vui hưởng sụ thân mật phong phú, cho tới lúc sự chết
phân rẽ họ” (NVYT 163).
Chương
Năm: “Tình yêu sinh hoa trái” (165-198)
Chương
Năm hoàn toàn tập chú vào tính sinh hoa trái của tình yêu và sự sinh sản. Nó đề
cập một cách thiêng liêng và tâm lý sâu sắc tới việc chào đón sự sống mới, tới
thời gian chờ đợi thai nghén, tới tình yêu của người mẹ người cha. Nó cũng nói
tới tính hoa trái mở rộng của việc nhận con nuôi, tới việc hoan nghinh sự đóng
góp của các gia đình vào việc cổ vũ “nền
văn hóa gặp gỡ”, và tới cuộc sống gia đình theo nghĩa rộng bao gồm cô chú,
anh chị em họ, thân nhân của các thân nhân, bằng hữu. Amoris laetitia
không tập chú vào điều vốn được gọi là “gia
đình hạch nhân” vì nó rất coi trọng gia đình như một mạng lưới rộng lớn hơn
gồm nhiều mối liên hệ. Linh đạo của bí tích hôn nhân có đặc điểm xã hội sâu sắc
(xem NVYT 187). Và bên trong chiều kích xã hội này, Đức Giáo Hoàng đặc biệt
nhấn mạnh tới vai trò đặc biệt của mối liên hệ giữa người trẻ và người cao
niên, cũng như mối liên hệ giữa các anh chị em, coi nó như cơ sở huấn luyện cho
việc liên hệ với người khác.
Chương
Sáu: “Một số viễn ảnh mục vụ”
(199-258)
Trong
chương sáu, Đức Giáo Hoàng thảo luận một số viễn ảnh mục vụ nhằm tạo ra các gia
đình vững chắc và sinh hoa trái theo kế hoạch của Thiên Chúa. Chương này sử
dụng rộng dài các bản tường trình sau cùng của hai thượng hội đồng và các bài
giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô và của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Nó
nhắc lại rằng các gia đình không những nên được phúc âm hóa, mà họ còn phải rao
giảng phúc âm nữa. Đức Giáo Hoàng tỏ ý tiếc rằng “các thừa tác viên thụ phong thường hay thiếu sự huấn luyện cần thiết
để đương đầu với các vấn đề phức tạp mà các gia đình hiện đang phải đối phó”
(NVYT 202). Một mặt, việc huấn luyện các chủng sinh về tâm cảm
(psycho-affective) cần được cải tiến, và các gia đình cần can dự nhiều hơn vào
việc huấn luyện người cho thừa tác vụ (xem NVYT 203); và mặt khác, “kinh nghiệm giáo sĩ lập gia đình của truyền
thống rộng lớn Đông Phương cũng có thể được rút tỉa” (NVYT 202).
Sau đó,
Đức Giáo Hoàng nói tới việc chuẩn bị hôn nhân cho các cặp đính hôn; tới việc
đồng hành với các cặp vợ chồng trong các năm đầu cuộc sống hôn nhân của họ,
trong đó, có vấn đề làm cha mẹ có trách nhiệm; và ngài cũng nói tới một số hoàn
cảnh và cuộc khủng hoảng phức tạp, vì biết rằng “mỗi cuộc khủng hoảng đều có một bài học để dạy chúng ta; chúng ta cần
học cách biết lắng nghe về nó với lỗ tai của trái tim” (NVYT 232). Một số
nguyên nhân của khủng hoảng đã được phân tích, trong số đó, có sự trễ nải trong
việc trưởng thành về xúc cảm (xem NVYT 239).
Ngài còn
nhắc thêm về việc đồng hành với những người bị bỏ rơi, ly thân hoặc ly dị. Tông
Huấn nhấn mạnh tầm quan trọng của cuộc cải tổ mới đây đối với các thủ tục tuyên
bố hôn nhân vô hiệu. Nó làm nổi bật sự đau khổ của con cái trong các hoàn cảnh
tranh chấp và kết luận: “Ly dị là một sự
ác và con số mỗi ngày một gia tăng các vụ ly dị là điều rất gây bối rối. Do đó,
bổn phận mục vụ quan trọng nhất của chúng ta đối với các gia đình là củng cố
tình yêu của họ, giúp hàn gắn các vết thương và làm việc để ngăn chặn việc lan
tràn bi kịch này của thời ta” (NVYT 246). Sau đó, chương này nói tới các
cuộc hôn nhân giữa một người Công Giáo và một Kitô hữu thuộc một hệ phái khác
(hôn nhân hỗn hợp), và giữa một người Công Giáo và một người thuộc một tôn giáo
khác (hôn nhân khác đạo). Liên quan tới các gia đình có thành viên là người có
khuynh hung đồng tính luyến ái, Tông Huấn tái xác nhận sự cần thiết phải tôn
trọng họ và kiềm chế bất cứ sự kỳ thị bất công nào cũng như mọi hình thức gây
hấn hay bạo động nào. Phần cuối cùng, rất cảm kích về phương diện mục vụ của
chương này, “khi sự chết làm chúng ta cảm
thấy nọc độc của nó” là nói về chủ đề mất người thân yêu và đời sống mất
chồng, mất vợ.
Chương
Bẩy: “Hướng tới việc giáo dục con cái tốt
hơn” (259-290)
Chương bẩy
dành để nói đến việc giáo dục con cái: đào luyện chúng về đạo đức, học tập kỷ
luật bao gồm trừng phạt, hiện thực kiên nhẫn, giáo dục giới tính, truyền thụ
đức tin và, nói chung hơn, cuộc sống gia đình như một bối cảnh giáo dục. Sự
khôn ngoan thực tiễn thấy nơi mỗi đoạn thật đáng lưu ý, trên hết là việc dành
chú ý cho các bước nhỏ, tiệm tiến “ta có
thể hiểu, chấp nhận và trân qúy được”(NVYT 271).
Có một
đoạn đặc biệt gây chú ý và có tính nền tảng về sư phạm trong đó, Đức Phanxicô
quả quyết một cách rõ ràng rằng “tuy
nhiên, ám ảnh không phải là giáo dục. Ta không thể kiểm soát mọi hoàn cảnh mà
đứa nhỏ có thể trải nghiệm… Nếu các cha mẹ bị ám ảnh với việc luôn phải biết
con cái họ đang ở đâu và kiểm soát mọi chuyển động của chúng, họ đã chỉ tìm
cách khống chế không gian mà thôi. Nhưng việc này không hề để giáo dục, củng cố
và chuẩn bị con cái họ giúp chúng đương đầu với các thách đố. Điều quan trọng
hơn cả là khả năng biết yêu thương giúp đỡ chúng lớn lên trong tự do, trưởng
thành, kỷ luật nói chung và thực sự tự lập” (NVYT 260).
Tiết đáng
lưu ý về giáo dục tính dục đã được đặt tựa đề rất hay là “Nói có với giáo dục tính dục”. Nhu cầu là ở đó, và chúng ta phải
nêu câu hỏi: “liệu các định chế giáo dục
của ta đã đảm nhiệm thách đố này chưa… trong một thời đại khi tính dục có
khuynh hướng bị tầm thường hóa và làm cho ra nghèo nàn”. Nền giáo dục tốt
đẹp cần được thi hành “bên trong khuôn
khổ rộng lớn hơn của việc giáo dục tình yêu, của việc giáo dục tự hiến thân hỗ
tương” (NVYT 280). Bản văn cảnh cáo rằng kiểu nói “làm tình an toàn” chuyên chở “một
thái độ tiêu cực đối với cùng đích tính sinh sản tự nhiên của tính dục, như thể
đứa trẻ có thể được sinh ra là một kẻ thù cần phải đề phòng chống lại. Kiểu suy
nghĩ này cổ vũ lòng tự yêu mình thái quá và tính gây hấn thay vì sự chấp nhận”
(NVYT 283).
Chương
Tám: “Hướng dẫn, biện phân và hội nhập
yếu đuối”
(291-312)
Chương tám
là lời mời gọi hướng tới lòng thương xót và biện phân mục vụ trong các hoàn
cảnh không hoàn toàn phù hợp với những gì Chúa đã đề xuất. Đức Giáo Hoàng sử
dụng ba động từ rất quan trọng: hướng dẫn, biện phân và hội nhập (integrating),
tất cả đều có tính nền tảng để giải quyết các hoàn cảnh mỏng dòn, phức tạp,
không hợp qui. Chương này có nhiều tiết nói về việc cần phải có sự tiệm tiến
(gradualness) trong việc chăm sóc mục vụ; tầm quan trọng của biện phân; các qui
luật và các hoàn cảnh giảm khinh trong việc biện phân mục vụ; và sau cùng, Đức
Giáo Hoàng kêu gọi phải có “luận lý học
thương xót mục vụ”.
Chương tám
là chương hết sức mẫn cảm. Đọc nó, người ta phải nhớ rằng “trách vụ của Giáo Hội thường giống trách vụ một bệnh viện dã chiến”
(NVYT 291). Ở đây, Đức Thánh Cha bám chặt các khám phá của hai thượng hội đồng
về các vấn đề gây tranh cãi. Ngài tái khẳng định điều hôn nhân Kitô Giáo vốn là
và nói thêm rằng “một số hình thức kết
hợp mâu thuẫn triệt để với lý tưởng này, trong khi một số hình thức khác thể
hiện nó ít nhất một phần hay tương tự”. Do đó, Giáo Hội “không coi thường các yếu tố xây dựng trong
các hoàn cảnh chưa hoặc không còn phù hợp với giáo huấn của mình về hôn nhân
nữa” (NVYT 292).
Về việc
biện phân đối với các hoàn cảnh “không
hợp qui”, Đức Giáo Hoàng nói rằng: “Cần
phải ‘tránh các phán đoán không đếm xỉa tới tính phức tạp của các hoàn cảnh đa
dạng’ và nhất thiết phải lưu ý tới việc người ta phải buồn phiền như thế nào vì
hoàn cảnh của họ” (NVYT 296). Và ngài viết tiếp: “đây là vấn đề phải vươn tay ra với mọi người, phải giúp mỗi người tìm
được cách riêng để tham dự vào cộng đồng Giáo Hội, và nhờ thế cảm nhận được sự
vuốt ve của một lòng thương xót ‘không cần công trạng, vô điều kiện và nhưng
không’” (NVYT 297). Và xa hơn: “những
người ly dị đã bước vào một kết hợp mới, chẳng hạn, có thể rơi vào một loạt các
hoàn cảnh khác nhau, mà ta không nên ngăn hộc hay nhét vào các loại xếp hạng
quá cứng ngắc, không chừa chỗ trống cho việc biện phân bản thân và mục vụ thích
đáng” (NVYT 298).
Theo đường
hướng trên, dựa vào các nhận xét của nhiều nghị phụ thượng hội đồng, Đức Giáo
Hoàng quả quyết rằng “người đã chịu phép
rửa nào ly dị và tái hôn theo dân luật cần được hội nhập trọn vẹn hơn vào các
cộng đồng Kitô hữu bằng nhiều cách có thể có, trong khi phải tránh bất cứ dịp
gây gương mù gương xấu nào”. “Việc
tham dự của họ có thể được biểu lộ qua nhiều phục vụ khác nhau trong Giáo Hội…
Những người như thế không nên cảm thấy mình như là các chi thể bị tuyệt thông
của Giáo Hội, nhưng thay vào đó phải như các chi thể sống động, có khả năng
sống và lớn lên trong Giáo Hội… Sự hội nhập này cũng cần phải có trong việc săn
sóc và dưỡng dục con cái họ theo Kitô Giáo” (NVYT 299).
Nói tổng
quát hơn, Đức Giáo Hoàng đưa ra một câu tuyên bố cực kỳ quan trọng để ta hiểu
chiều hướng và ý nghĩa của Tông Huấn: “Nếu
chúng ta xem xét sự đa dạng mênh mông của các hoàn cảnh cụ thể…, điều có thể
hiểu được là không ai chờ mong cả thượng hội đồng lẫn tông huấn này sẽ cung cấp
một bộ qui luật tổng quát mới, hợp giáo luật từ trong bản chất và có thể áp
dụng cho mọi trường hợp. Điều cần đơn thuần là một khích lệ đổi mới để người ta
đảm nhiệm việc biện phân bản thân và mục vụ một cách có trách nhiệm trong các
trường hợp đặc thù, một sự biện phân biết nhìn nhận rằng, vì “mức độ trách
nhiệm không như nhau trong mọi trường hợp’, các hậu quả hay hệ quả của một qui
luật không cần luôn phải nhất thiết như nhau” (NVYT 300). Đức Giáo Hoàng
khai triển một cách sâu sắc các nhu cầu và các đặc điểm của cuộc hành trình
đồng hành và biện phân cần thiết đối với cuộc đối thoại có chiều sâu giữa tín
hữu và các mục tử của họ.
Để đạt mục
đích trên, Đức Thánh Cha nhắc ta nhớ lại suy tư của Giáo Hội về “các nhân tố và hoàn cảnh giảm khinh”
liên quan tới việc qui trách nhiệm và giải trình hành động; và dựa vào Thánh
Tôma Aquinô, ngài tập chú vào mối liên hệ giữa các qui luật và việc biện phân
bằng cách quả quyết rằng “Quả thực các
qui luật tổng quát đưa ra một sự thiện mà ta không bao giờ có thể coi thường
hay bỏ qua, nhưng trong hình thức phát biểu của chúng, chúng không thể tuyệt
đối dự liệu mọi hoàn cảnh đặc thù được. Đồng thời, cần phải nói rằng, chính vì
lý do đó, điều vốn là thành phần của một biện phân thực tiễn trong các hoàn
cảnh đặc thù không thể được nâng lên hàng một qui luật” (NVYT 304).
Tiết sau
cùng của chương này bàn đến “luận lý học
thương xót mục vụ”. Để tránh hiểu lầm, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mạnh mẽ nhắc
lại: “Bầy tỏ sự hiểu biết trước các hoàn
cảnh ngoại lệ không bao giờ hàm nghĩa phải giảm độ ánh sáng của các lý tưởng
trọn vẹn hơn hay đề xuất ít hơn điều Chúa Giêsu đề xuất cho con người nhân bản.
Ngày nay, điều quan trọng hơn việc chăm sóc mục vụ đối với những hoàn cảnh thất
bại là cố gắng mục vụ nhằm củng cố các cuộc hôn nhân và nhờ thế phòng ngừa việc
chúng đổ vỡ” (NVYT 307).
Chiều
hướng nói chung của chương này và của tinh thần mà Đức Phanxicô muốn dành cho
công việc mục vụ của Giáo Hội đã được tóm tắt trong các lời kết như sau: “Tôi khuyến khích các tín hữu đang thấy mình
rơi vào các hoàn cảnh phức tạp hãy tin tưởng nói chuyện với các mục tử của họ
hay với các tín hữu giáo dân khác vốn có đời sống dấn thân cho Chúa. Có thể
không phải lúc nào họ cũng tìm được nơi những người này một sự xác nhận đối với
các ý nghĩ hay ước nguyện của mình, nhưng chắc chắn, họ sẽ nhận được chút ánh
sáng nào đó giúp họ hiểu hoàn cảnh của mình tốt hơn và khám phá ra con đường
phát triển bản thân. Tôi cũng khuyến khích các mục tử của Giáo Hội hãy lắng
nghe họ một cách mẫn cảm và thanh thản, thành thực muốn hiểu cảnh ngộ và quan
điểm của họ, ngõ hầu giúp họ sống cuộc sống tốt đẹp hơn và nhìn nhận chỗ đứng
thích đáng của họ trong Giáo Hội” (NVYT 312).
Về “luận lý học thương xót mục vụ”, Đức Phanxicô nhấn mạnh:
“Đôi lúc, chúng ta thấy khó dành chỗ cho tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa
trong hoạt động mục vụ của ta. Ta đặt không biết bao nhiêu điều kiện lên lòng
thương xót đến nỗi làm nó rỗng hết mọi ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa chân thực của
nó. Đây là cách tệ hại nhất để làm loãng Tin Mừng” (NVYT 311).
Chương
Chín: “Linh đạo hôn nhân và gia đình”
(313-325)
Chương
chín dành cho linh đạo hôn nhân và gia đình, một linh đạo “kết thành bởi hàng ngàn cử chỉ nhỏ mọn nhưng có thực chất” (NVYT
315). Đức Giáo Hoàng quả quyết một cách rõ ràng rằng “những ai có khát vọng linh đạo sâu sắc không nên cảm nhận rằng gia
đình đánh giá thấp việc họ lớn lên trong sự sống Thần Khí, nhưng đúng hơn họ
coi sự sống này như con đường Chúa muốn dùng để dẫn họ tới đỉnh cao của việc
kết hợp huyền nhiệm” (NVYT 316). Mọi sự, “những lúc vui, thư giãn, cử hành, và ngay cả làm tình cũng có thể được
cảm nghiệm như một tham dự vào cuộc sống trọn vẹn của phục sinh” (NVYT
317). Rồi ngài nói tới việc cầu nguyện dưới ánh sáng Phục Sinh, tới linh đạo
của tình yêu độc chiếm và tự do trong thách đố và hoài mong được về già với
nhau, luôn phản ảnh lòng chung thủy của Thiên Chúa (xem NVYT 319). Và sau cùng,
là linh đạo chăm sóc, an ủi và khuyến khích: Đức Giáo Hoàng dạy rằng “mọi cuộc sống gia đình đều là một ‘việc
chăn chiên’ trong thương xót. Mỗi người chúng ta, qua yêu thương và săn sóc,
đều để lại dấu ấn lên đời người khác”(NVYT 322). “Ngắm nhìn người thân yêu của chúng ta bằng con mắt của Thiên Chúa và
thấy Chúa Kitô trong họ chính là một kinh nghiệm thiêng liêng” sâu sắc
(NVYT 323).
Trong đoạn
cuối cùng, Đức Phanxicô khẳng định: “không
gia đình nào rơi xuống từ trời đã hoàn toàn được hình thành ngay; các gia đình
luôn cần được lớn lên và trưởng thành trong khả năng yêu thương… Tất cả chúng
ta đều được kêu gọi tiếp tục cố gắng hướng tới một điều gì đó lớn hơn chính
chúng ta và gia đình chúng ta, và mọi gia đình phải cảm nhận được sự thúc đẩy
này. Chúng ta hãy thực hiện cuộc hành trình này như các gia đình, chúng ta hãy
tiếp tục tiến bước với nhau. (…) Chớ gì ta đừng ngã lòng vì các giới hạn của
mình hay ngừng việc tìm kiếm sự viên mãn của tình yêu và tình hiệp thông mà
Thiên Chúa đang bầy tỏ trước mặt ta” (NVYT 325).
Tông Huấn
kết thúc bằng lời cầu nguyện với Thánh Gia.
Tóm lại, Amoris
Laetitia tìm cách khẳng định không phải “gia
đình lý tưởng” mà là thực tại hết sức phong phú và phức tạp của đời sống
gia đình. Nó cung cấp một cái nhìn cởi mở, tích cực sâu xa, được nuôi dưỡng
không phải bằng các điều trừu tượng hay phóng chiếu lý tưởng, nhưng bằng sự
quan tâm mục vụ đối với thực tại. Ngôn ngữ của Tông Huấn vì thế là ngôn ngữ của
kinh nghiệm và hy vọng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét