GIUĐA CÓ ĐƯỢC CỨU RỖI HAY PHẢI PHẠT ĐỜI ĐỜI?
LM
Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
Hỏi:
Nhân
Tuần Thánh, tưởng niệm sự đau khổ, sự chết và sống lại của Chúa Kitô,
xin
cha giải đáp hai câu hỏi sau đây:
1-
Giuda có được cứu rỗi hay không?
2-
Phải chăng Đức Mẹ đã được Thiên Chúa ban ơn cứu độ trước khi làm Mẹ Chúa Giêsu?
Trả lời:
1-Về
câu hỏi thứ nhất, xin được trả lời như sau:
Nói đến Giuđa thì trước hết,
đây là điển hình cho loại người quá đam mê tiền của đến quên tinh quên ân nghĩa
và phản bội. Đây cũng là gương xấu to lớn phải tránh cho mọi người có niềm tin
nơi Chúa là Đấng đầy lòng thương xót , công bình và hay tha thứ. Người thương
xót và hay tha thứ, nhưng chúng ta phải tin tưởng và chậy đến xin Người thứ tha
cho dù tội lỗi đến đâu. Chí có một tội không thể tha thứ được: đó là tội phạm đến
Chúa Thánh Thần , tức là tội hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa và không còn tin tưởng
gì nơi lòng thương xót của Người nữa. Đó là điều Chúa Giêsu đã nói rõ với các
tông đồ trong Tin Mừng như sau:
“Tôi bảo thật cho anh em
: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng , và nói phạm thượng
nhiều đến mấy đi nữa thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần
thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời. “ (Mc 3: 28-29)
Nói rõ hơn, nhờ Chúa
Thánh Thần soi mở lòng trí để giúp ta nhận biết và tin có Thiên Chúa là Cha
nhân lành , đầy lòng xót thương và hay tha thứ . Nên khi hoàn toàn chối bỏ
Thiên Chúa và tình thương tha thứ của Người , thì người ta phạm đến Chúa Thánh
Thần là Đấng đã giúp con người tin và yêu mến Thiên Chúa.Như thế, nếu Giuđa quả
thực hết tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa đến nỗi đi thắt cổ tự tử thì có
thể Giuđa đã phạm tội mà Chúa Giêsu nói trên đây. Nhưng điều này chỉ có một
mình Thiên Chúa biết và phán đoán Giuđa chiếu theo lòng khoan dung vô lượng và
công minh tuyệt đối của Người. Nghĩa là chúng ta không thể căn cứ vào sự kiện bề
ngoài để đưa ra một phán đoán nào, vì chúng ta hoàn toàn không biết được Giuđa
có thực sự mất hết tin tưởng nơi lòng thương xót tha thứ của Chúa, hay trong một
phút trước khi chết, anh ta đã kịp ăn năn hối lỗi và được tha thứ như người trộm
lành?
Điều này chỉ một mình
Chúa biết mà thôi.Do đó, Giáo Hội cũng không dám đưa ra một phán đoán chắc chắn
nào về số phận đời đời của Giuđa.Nếu Giáo Hội mà không dám kết luận chắc chắn về
phần rỗi của Giuđa thì chúng ta dựa vào đâu mà dám nghĩ rằng Giuđa đã sa hỏa ngục
hay được cứu rỗi?
Cũng vậy, đối với những
người tự tử chết ngày nay, Giáo Hội vẫn cho phép cử hành lễ an táng cũng như cho
chôn xác trong nghĩa trang công giáo, một điều không được phép làm trước Công Đồng
Vaticanô II . Sở dĩ trước đây Giáo Hội cấm cử hành tang lễ cho người tự tử chết
vì Giáo Hội lên án hành vi xấu này chứ không vì phán đoán rằng người tự tử đã
sa hỏa ngục rồi nên không còn ích gì để cầu nguyện cho ai đã tự hủy hoại đời
mình vì bất cứ lý do nào.
Như vậy, ta không nên
phán đoán gì về trường hợp của Giuđa cũng như về những người đã tự tử chết, mặc
dù đó là gương xấu và cũng là tội trọng phải tránh. Giuđa có tội rất lớn là đã
tham tiền và cam tâm phản bội Chúa khi bán Người lấy 30 đồng bạc của bọn Thượng
Tế Do Thái. Không ai có thể biện minh cho việc phản bội, tham tiền và thất vọng
đi tự tử của Giuđa.
Chính Chúa Giêsu cũng lên
án việc phản bội của Giuđa như sau:
“Đã hẳn, Con Người ra đi
theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người : thà kẻ đó đừng
sinh ra thì hơn !” (Mc 14: 21)
Lại nữa trong lời cầu
cùng Chúa Cha trước đêm bị trao nộp , Chúa Giêsu cũng than trách về Giuđa như
sau :
“Khi còn ở với họ, con đã
giữ gìn họ
Trong danh Cha mà Cha đã
ban cho con
Con đã canh giữ và không
một ai trong họ phải hư mất
Trừ đứa con hư hỏng để ứng
nghiệm lời kinh Thánh.” (Ga 17: 12)
Đứa con “hư hỏng” vì đã
phản bội chứ không có nghĩa là đã sa hỏa ngục. Nhưng việc Chúa phải chịu khổ
hình và chết trên thập giá lại khác: không phải vì Giuđa phản bội, mà vì Chúa
Giêsu muốn thi hành thánh ý Chúa Cha muốn Người hy sinh để đền tội cho cả loài
người như Thánh Phaolô đã dạy:
“Đến như chính Con Một,
Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thẩy chúng ta.” (Rm 8:32)
Thánh Phêrô cũng quả quyết
thêm như sau:
“Chính Đức Kitô đã chịu
chết một lần vì tội lỗi. Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương hầu dẫn đưa
chúng ta đến cùng Thiên Chúa.” (1 Pr 3 :18)
Cũng chính vì vâng ý Chúa
Cha để chiu khổ hình thập giá và chết thay cho kẻ có tội là mọi người chúng ta,
nên trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa Giêsu đã phó linh hồn cho Chúa Cha với
những lời thống thiết như sau:
“Lậy Cha, con xin phó
thác hồn con trong tay Cha.Nói xong Người tắt thở.” ( Lc 23:46)
Lời cầu xin phó linh hồn
trên đây của Chúa Giêsu đã được tiên báo trước trong Thánh Vinh 131:
Trước khi Chúa đến trần
gian để thi hành thánh ý Chúa Cha:
“Trong tay Ngài con xin
phó linh hồn con.” (Tv 131: 6)
Như thế, chứng tỏ Chúa
Giêsu đã biết trước việc Người sẽ chết để đền tội cho nhân loại, đúng như Người
đã nói với các môn đệ trong khi còn đi rao giảng Tin Mừng với họ:
“Này chúng ta lên
Jerusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử
tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người.
Họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại. “(Mc
10:33-34),
Do đó, không thể nói rằng
nếu Giuđa không phản bội thì Chúa đã không chết.
Sự thật phải tin là Chúa
Giêsu đến trần gian làm Con Người để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn
người, trong Chương Trình Cứu Độ nhân loại của Chúa Cha, như ngôn sứ Isaia đã
loan báo từ 8 thế kỷ trước khi Chúa Giêsu sinh xuống trần gian:
“Tôi đã đưa lưng cho người
ta đánh đòn
Giơ má cho người ta giật
râu
Tôi không che mặt khi bị
mắng nhiếc phỉ nhổ.” (Is 50: 6)
Hoặc:
“Chính Người đã bị đâm vì
chúng ta phạm tội
Bị nghiền nát vì chúng ta
lỗi lầm
Người đã chịu sửa trị để
cho chúng ta được bình an
Đã mang lấy thương tích
cho chúng ta được chữa lành. “( Is 53 :5)
Như vậy, đủ cho thấy rõ
là Chúa Cha đã dự liệu những khổ hình mà Chúa Kitô sẽ phải chịu để cứu chuộc
cho nhân loại khỏi bị án phạt vì tội. Người chính là “Chiên Thiên Chúa, Đấng
xóa tội trần gian” như Gioan Tiền Hô đã tuyên xưng một ngày kia. Chúa Giêsu
cũng đã xác nhận những điều đã được tiên báo về Người trong đêm bị nộp khi Chúa
quở mắng Phêrô vì đã chém. đứt tai một đầy tớ của Thượng tế Do Thái:
“Hay anh tưởng là Thầy
không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo
binh thiên thần. Nhưng như thế thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được?” (M t26:
53-54)
Hay rõ hơn nữa , khi Chúa
bảo Phêrô “ Hãy xỏ gươm vào bao. Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy
chẳng uống? “( Ga 18: 11)
Chén đắng đây chính là việc
Người bị trao nộp, bị đánh đập, nhạo báng, phỉ nhổ và cuối cùng bị đóng đanh và
chết trên thập giá.Như vậy, tuyệt đối không có vấn đề giả sử Giuđa đừng phản bội
thì Chúa đã không phải chết. Đây là chén đắng Chúa Cha đã định liệu cho Người uống
để chuộc tội cho nhân loại trong chương trình cứu độ của Chúa Cha
Và Chúa Kitô đã vui lòng
uống “chén đắng” đó khi Người không kêu cứu Chúa Cha sai đạo binh thiên thần đến
giải thoát cho Người khỏi bị bắt và điệu đi hành hình.
Dầu vậy, Giuđa vẫn có lỗi
lớn là đã bán Chúa lấy 30 đồng bạc của các thượng tế và kỳ mục Do Thái. Và vì
không ngờ việc bán Thầy lại trùng hợp với việc Chúa Giêsu vâng ý Chúa Cha để
vui lòng chiu tử nạn, nên y đã quá thất vọng đi tự tử, tức là phạm thêm một tội
trọng nữa là tự hủy hoại mang sống mình. Nhưng như đã nói ở trên, ta không biết
được Giuđa có còn kịp sám hối trước khi chết hay không, nên không thể kết luận
được gì về phần rỗi của y. Việc này Chỉ có Chúa biết mà thôi.
2- Đức Mẹ được cứu chuộc
trước khi Chúa Kitô ra đời?
Có thể nói vắn gọn là điều
này không đúng, vì bằng chứng Kinh Thánh sau đây:
a- “Chỉ có một Thiên Chúa
Chỉ có một Đấng trung
gian giữa Thiên Chúa và loài người
Đó là một con người: Đức
Kitô- Giêsu
Đấng đã tự hiến làm giá
chuộc cho mọi người.” (1 Tm 2 : 5-6)
b-“Ngoài Người ( Đức Kitô) ra, không ai đem lại ơn cứu độ vì dưới gầm
trời này
Không có một danh nào
khác đã ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào
Danh đó mà được cứu độ.”
(Cvtđ 4: 12)
Đức Trinh Nữ Maria được
diễm phúc không mắc tội tổ tông và mọi tội khác, được trọn đời đồng trinh dù đã
sinh Chúa Giêsu với quyền năng của Chúa Thánh Thần, cũng như được về trời cả hồn
xác.Nghĩa là Mẹ không phải trải qua cái chết trong thân xác như mọi con người
sinh ra trong trần thế này. Hơn thế nữa, Mẹ còn được tuyên xưng là Mẹ Thiên
Chúa (Theotokos) vì là Mẹ thật của Chúa Giêsu, cũng là Thiên Chúa, đồng bản thể
với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi Một Thiên Chúa (The
Holy Trinity).
Nhưng dù với địa vị cao
trọng làm vậy, Mẹ cũng không cùng bản thể với Thiên Chúa hay cao hơn Chúa, là Đấng
được tôn thờ ở mức Latria trong khi Mẹ được tôn kính đặc biệt ở mức Hyperdulia,
các Thánh Nam Nữ khác ở mức Dulia trong phụng vụ thánh của Giáo Hội. Đó là những
điều chúng ta cần biết, tin và thực hành như Giáo Hội dạy.
Mặt khác, nói về ơn cứu độ,
chính Mẹ Maria đã nói khi đến thăm bà Ê-liza-bet như sau :
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa Đấng cứu độ
tôi (My Savior) (Mangnificat :47)
Như thế Đức Mẹ cũng nhận
ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu-Kitô,Con của Mẹ là Đấng trung gian duy nhất giữa
Thiên Chúa và loài người. Chúa đã hoàn tất công nghiệp cứu chuộc này qua khổ
hình thập giá, chết và sống lại như Giáo Hội dạy.
Nhưng Giáo Hội chưa hề dạy
rằng Mẹ Maria đã được lãnh nhận ơn cứu chuộc của Thiên Chúa trước khi làm Mẹ
Ngôi Hai. Thiên Chúa có Chương Trình cứu chuộc loài ngoài, và đã nhờ Chúa Kitô
thi hành Chương Trình này và Chúa đã hoàn tất Công Trình đó qua khổ nạn thập
giá, chết, sống lại và lên trời. Đó là nội dung Mầu Nhiệm Vượt qua (Paschal
Mystery) của Chúa Kitô mà Giáo Hội cử hành mỗi năm trong Tuần Thánh với cao điểm
là Lễ Phục Sinh, tuyên xưng Chúa Kitô đã sống lại sau khi phải chiu khổ nạn và
thực sự chết trên thập giá và được mai táng 3 ngày trong Mồ đá.
Như thế, trước khi Chúa
Kitô hoàn tất Chương Trình cứu độ của Chúa Cha qua Mầu Nhiệm Vượt qua thì công
nghiệp cứu chuộc đó chưa có để ban phát cho ai, - dù là riêng cho Mẹ Maria- vì
Chúa Giêsu chưa “uống chén đắng” mà Chúa Cha muốn trao cho Người.
Chính vì ơn cứu độ chưa sẵn
có, nên những người lành thánh chết từ bao đời trước khi Chúa Giêsu hoàn tất
công nghiệp cứu chuộc của Người, thì đều phải ở nơi gọi là “Ngục tổ tông=Abode
of the Dead” đợi chờ Chúa “đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm” ở đây.
Vì thế, sau khi Chúa chết trên thập giá, Người đã xuống nơi này với tư cách là
Đấng Cứu Thế để loan báo Tin mừng cứu độ cho họ và dẫn đưa họ vào Thiên Đàng (x.1
Pr 3: 19; SGLGHCG số 632)
Do đó, không thể nói rằng
Chúa Cha đã ban ơn cứu độ riêng cho Mẹ Maria, Người đầy ơn phúc, vì đã sinh Con
Chúa Trời và cộng tác tích cực vào việc thi hành Chương Trình cứu chuộc nhân loại
của Chúa Giêsu-Kitô. Nghĩa là mọi người - kể cả Đức trinh Nữ Maria - dù vẹn
toàn vì không mắc tội tổ tông và mọi tội cá nhân - đều phải nhận ơn cứu chuộc của
Chúa Kitô để vào Nước Trời hưởng Thánh Nhan Chúa là hạnh phúc của các Thánh và
các Thiên Thần. Lý do là chỉ có một mình Chúa Kitô là Đấng trung gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và loài người trong việc cứu độ nhân loại như lời Kinh Thánh
trích trên đây.Cho nên, khi Người chưa hoàn tất công cuộc cứu chuộc loài người
qua Hy Tế Thập giá, thì ơn cứu độ đó chưa sẵn có để ban cho ai.Vả lại, nếu ơn
đó đã sẵn có, thì Chúa Kitô đã không cần phải đến trần gian “để hiến mạng sống
mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20:28) và trở thành Đấng Cứu Chuộc duy
nhất cho nhân loại (Human Savior).
Đó là tất cả những điều
người tín hữu Chúa Kitô phải tin và thực hành để hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội
Công Giáo là Mẹ, thay mặt Chúa là Cha để dạy dỗ con cái mình không sai lầm những
gì thuộc phạm vị đức tin và luân lý. Amen Alleluia! Alleluia!
Ước mong những lời giải
thích trên thỏa mãn các câu hỏi được đặt ra.
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn
Huấn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét