CHIẾC CHÌA KHÓA
Mon,
17/08/2020 - Trầm Thiên Thu
Khoảng năm 1602, họa sĩ
Annibale Carracci (1560–1609, Ý) vẽ bức tranh “Domine, quo vadis?” mô tả một cảnh
trong ngụy thư Công Vụ Phêrô (Acts of Peter). Annibale Carracci đã sáng lập trường
phái hội họa Baroque của Ý, gọi là trường phái Bologna. Bức tranh “Quo Vadis” là
một trong các tác phẩm của ông được biết đến nhiều nhất, mô tả Thánh Phêrô đang
trên đường trốn khỏi Rôma thì gặp Chúa Giêsu vác Thập Giá. Phêrô hỏi: “Domine,
quo vadis?” (Thầy đi đâu vậy?) Chúa trả lời: “Romam vado iterum crossifigi.”
(Thầy đến Rôma chịu đóng đinh.) Nghe Thầy nói vậy, Phêrô trở lại Rôma ngay lập
tức.
Phêrô là một ngư phủ bình
thường, không có gì nổi bật, nhưng lại được Chúa chọn làm trưởng Nhóm Mười Hai
và trao cho ông chiếc “chìa khóa uy quyền” để cai quản và hướng dẫn Giáo Hội tại
thế. Chức vụ và chức danh nghe có vẻ giống nhau, nhưng có phần khác nhau quan
trọng. Chức danh đề cập phẩm tước, còn chức vụ đề cập công việc, trách nhiệm và
bổn phận về chức vụ – gọi là chức phận. Như vậy, chức danh không cần có chuyên
môn, nhưng chức vụ cần có chuyên môn. Danh từ “chức sắc” thường dùng trong tôn
giáo, tức là nói về những người có chức vụ nào đó. Chức (tước) luôn gắn liền với
(nhiệm) vụ.
Chúa đã muốn thì không thể
trốn tránh. Phêrô trốn không thoát. Giêrêmia trốn không thoát. Giôna trốn không
thoát. Tuy nhiên, người có chức vụ mà không làm đúng chức năng thì chỉ là “hữu
danh vô thực,” là “bù nhìn,” là hình nộm, như ma-nơ-canh (mannequin, người giả ở
các tiệm trang phục). Loại người “ham chức, quên vụ” này chẳng làm nên trò trống
gì, đôi khi còn phá bướng, nhưng lại hay lên mặt “ta đây.” Chúa rất ghét loại
người này. Chắc chắn có hệ lụy, trốn không thoát.
Trình thuật Mt 16:13-20
[≈ Mc 8:27-30; Lc 9:18-21] cho biết rằng, khi đến vùng kế cận thành Xêdarê
Philípphê, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?” Hỏi để mà
hỏi, vì Ngài biết rõ mười mươi rồi. Ngài hỏi là để người khác tự xác tín. Và
các ông đều thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có
người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.” Mỗi người mỗi ý, mỗi
cách nhìn, nhưng chung quy vẫn coi Ngài là một “người đặc biệt,” một “dị nhân”
ngoại hạng.
Rồi Ngài hỏi chính Nhóm
Mười Hai: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Chúa Giêsu nói: “Này anh Simôn, con ông Giôna,
anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy,
nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh
là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,
và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời:
dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất,
anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Ý Chúa quan phòng và
tiền định nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Nghe ông Phêrô nói vậy, Ngài
cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Ngài là Đấng Kitô. Sao vậy? Giờ
Ngài chưa đến.
Ngay lúc nhận “chìa khóa”
cũng là lúc ngư phủ Phêrô đã trở thành giáo hoàng tiên khởi với quyền tối thượng,
Công Đồng Vatican I (từ 08-12-1869 tới 01-07-1870, thời ĐGH Pio IX) đã xác nhận
ơn bất khả ngộ của giáo hoàng. Chìa khóa mà Sư Phụ Giêsu trao cho đệ tử Phêrô
là Chìa-Khóa-Yêu-Thương-và-Tha-Thứ, Chìa-Khóa-Nước-Trời để mở lối vào cho các hối
nhân, chứ không là Chìa-Khóa-Nhà-Tù để giam hãm người khác. Có chức thì có quyền,
nhưng cũng đầy bổn phận và trách nhiệm. Quyền cũng đi với Hành, gọi là quyền
hành, thế nên đôi khi những người có quyền thì cũng dễ lạm dụng rồi khoái
“hành” người khác. Việt ngữ thật thâm thúy!
Nhưng là phàm nhân nên dễ
“nghiêng ngả” nếu không tỉnh thức để từ bỏ mình. Thật vậy, con người ảo tưởng
nên rất dễ háo danh và hám lợi, vì có “cái danh” thì thường có kèm theo “cái lợi.”
Chức danh càng cao, bổng lộc càng nhiều. Điều này xảy ra trong xã hội thì quá
rõ ràng, từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây đều có, nhưng ngay trong Giáo Hội
cũng có những người không thoát khỏi vòng kiềm tỏa của danh lợi đời thường. Người
ta cứ chú trọng “cái danh” mà quên “cái phận,” trong khi “cái phận” cần thiết
hơn “cái danh.” Thật vậy, Đức Kitô đã động viên người ta phải dám “ngược đời”
chứ không theo sự thường: “Nhiệt tâm phục vụ, không mong hưởng thụ.” (x. Mt
20:28) Hai động thái trái ngược mà vẫn xuôi chiều, thuận lý.
Ngày xưa, viên quan
Sép-na là tể tướng triều đình (tương tự thủ tướng ngày nay), được người ta coi
là “người hùng,” nhưng Đức Chúa tuyên phán thẳng thắn và rõ ràng: “Ta sẽ TỐNG
ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ ĐUỔI ngươi khỏi địa vị. Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta
là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu. Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho
nó, cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó, quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao
vào tay nó, nó sẽ là cha đối với cư dân Giêrusalem và với nhà Giuđa. Chìa khoá
nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó. Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại
thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột, nó sẽ nên
như ngai vinh hiển cho nhà cha nó.” (Is 22:19-23) Chiếc chìa khóa thời Cựu Ước
có liên quan chiếc chìa khóa thời Tân Ước: Bí tích Hòa Giải – Bí tích Thương
Xót. Thật hạnh phúc, bởi vì chúng ta có thể “tắm gội” nhiều lần để sạch sẽ.
Là Đấng từ bi, nhân hậu,
và giàu lòng xót thương, nhưng Thiên Chúa rất thẳng thắn và dứt khoát, không
thiên tư tây vị. Ngài đã cho chúng ta thời gian để sửa đổi, nếu không chịu chấn
chỉnh, chúng ta sẽ bị Ngài tước hết. Thật vậy, có lần chính Chúa Giêsu đã xác định:
“Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái
đang có, cũng sẽ bị lấy mất.” (Mt 13:12; Mt 25:29; Mc 4:25; Lc 8:18; Lc 19:26)
Ngài cũng nói rõ: “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời, đã không trồng,
thì sẽ bị nhổ đi.” (Mt 15:13) Nghe mà cảm thấy sợ hãi, nhưng không nên hoang
mang.
Tuy nhiên, đối với những
người biết sám hối và sửa sai, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ và phục hồi nguyên
trạng: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật
xa ta.” (Tv 103:12) Thật là trên cả tuyệt vời. Khổng Tử cho biết: “Có lỗi mà không
sửa mới thành ra có lỗi.” Đúng như vậy. Lời Chúa có lúc làm cho chúng ta vui mừng,
rồi cũng có khi làm chúng ta đau nhói, nhưng tất cả vẫn là hồng ân, Ngài luôn
ân cần lắng nghe và thấu hiểu nỗi lòng của mọi người. Thánh Vịnh gia khiêm nhường
thân thưa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa
chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn
thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh
thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự.” (Tv 138:1-2)
Vâng, dù có thế nào thì
chúng ta vẫn cần tạ ơn, một động thái rất cần thiết vì nhiều lý do, vừa minh
nhiên vừa mặc nhiên: “Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị
lực cho tâm hồn. Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe những lời
miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ đại dường
bao!” (Tv 138:3-5) Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại
kéo lên, bắt phải nghèo và cho giàu có, hạ xuống thấp, và cũng nhắc lên cao. (1
Sm 2:6-7; Kn 16:13; x. Tv 30:4) Tất cả vì thương xót mà thôi.
Thiên Chúa cao vời khôn
ví, làm cho chúng ta từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, và chúng ta chẳng
bao giờ hiểu nổi lòng thương xót bao la vô tận của Ngài: “Chúa tuy thật cao cả,
nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết.
Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn
tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.” (Tv 138:6
và 8) Được thương xót nhiều hay ít là điều tùy vào niềm tin của mỗi người: “Ai
tin thế nào thì được như vậy.” (Mt 8:13; Mt 9:29)
Vừa đặt vấn đề vừa giải
thích, Thánh Phaolô nói: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa
sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người,
ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho
Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau? Vì muôn vật đều do Người
mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến
muôn đời! Amen.” (Rm 11:33-36) Những vấn đề này vẫn luôn nóng bỏng và nhức nhối
ở mọi thời đại. Đó cũng là những câu hỏi để mỗi chúng ta tự cân-đo-đong-đếm mức
độ tín thác của mình vào Thiên Chúa, một dạng trắc nghiệm tâm linh.
Thiên Chúa là ai mà tôi
nên tin? Đó là nghi vấn người ta vẫn luôn đặt ra ở mọi thời đại. Người vô thần
cho rằng người hữu thần (cụ thể là Kitô hữu) chỉ ảo tưởng và mơ hồ, nhẹ dạ, nên
bị tôn giáo “ru ngủ” và mê hoặc. Người ta luôn muốn dùng các tiến bộ khoa học
hoặc bất cứ thứ gì khác để chứng minh rằng “không có Thiên Chúa,” nhưng tất cả
đều vô vọng. Đức Tin cần có lý trí, nhưng phải là lý trí trong suốt, dùng lý
trí để cố ý chối bỏ và không tin thì hoàn toàn bất trị – ngôn ngữ @ gọi là
bó-tay-chấm-com. Người vô thần càng cố tìm cách chối bỏ Thiên Chúa thì chỉ gặp
ngõ cụt, những người tin có kiếp luân hồi cũng bế tắc. Thật vậy, một Saolê giỏi
giang và bạo tàn đến thế mà rồi cũng đành phải “bó tay” trước Thiên Chúa để trở
nên một con người hoàn toàn khác, một Phaolô thuần hóa và nhiệt thành rao giảng
Chúa-Giêsu-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh.
Khi ở trong chốn lao tù,
ngôn sứ Gioan đã sai đệ tử đến gặp Chúa Giêsu và hỏi xem Ngài có phải là Đấng
phải đến hay còn phải đợi ai khác. Ngài không trả lời rõ ràng mà chỉ nói: “Các
anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy,
kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ
nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” (Mt 11:4-6)
Dấu chỉ sự thật mãi mãi bất biến, nếu không nhận ra bởi vì người ta cố ý nhắm mắt,
cố chấp.
Khi xét xử Chúa Giêsu, vị
thượng tế cũng hỏi Ngài: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải
nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt
26:63; Mc 14:61) Chúa Giêsu cũng không xác định mà lại nói: “Chính ngài vừa
nói.” (Mt 26:64) Theo Thánh Luca, Chúa Giêsu nói rõ: “Tôi có nói với các ông,
các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời.” (Lc 22:67-68)
Có thể chính chúng ta cũng đã hoặc đang có những lúc đặt vấn đề như vậy. Sự
hoài nghi rất tinh vi nên không dễ nhận ra.
Khi còn là TGM Jorge
Mario Bergoglio, ĐGH Phanxicô sống giản dị, luôn gần gũi người nghèo, có những
lần ngài bất ngờ đến với dân nghèo và người lao động, tự cầm khay và đứng xếp
hàng chờ đến lượt mình nhận thức ăn nơi quầy thức ăn, giống như mọi người,
không nhận quyền ưu tiên nào, và rồi cùng ăn uống với họ. Điều này chứng tỏ lời
ngài là thật đối với câu nói của ngài đã phát biểu trước đám đông giới trẻ:
“Tôi không muốn làm giáo hoàng.”
Là giáo hoàng, “vua” của
Công giáo, nhưng “ông lớn” lại thích làm “ông nhỏ,” tự phục vụ chứ không cần
người khác phục vụ, còn nhiều “ông nhỏ xíu” lại muốn biến thành “ông lớn.” Cười
ra nước mắt, vì họ chẳng khác gì chú Ếch con mà muốn to bằng con Bò trong truyện
ngụ ngôn “La Grenouille Qui Veut Se Faire Aussi Grosse Que Le Bœuf” của Jean de
La Fontaine. Thật là khôi hài, không có năng khiếu mà thích diễn, lố bịch quá
chừng!
Cổ nhân có câu: “Tam nhân
đồng hành tất hữu ngã sư yên.” Trong ba người thì có một người làm thầy. Lẽ tất
nhiên. Chức vụ là để phục vụ chứ không để tự tôn hoặc lên mặt với người khác. Mỗi
người đều được Thiên Chúa mời gọi hoạt động trong một lĩnh vực nào đó để cộng
tác với Ngài, cùng tiếp tục hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa, không ai
được phép “hưởng nhàn.” Ai cũng “nói hay” về sự phục vụ nhưng chưa chắc muốn phục
vụ. Người ta cứ leo lẻo nói rằng “lao động là vinh quang,” nhưng rồi có mấy ai
thích vinh quang mà chỉ ưa ngồi rung đùi, chỉ tay năm ngón, và... hốt bạc tỷ. Sống
chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi – đời cũng thế mà đạo cũng vậy. Xong. Nhưng chìa
khóa và ổ khóa không hề giống nhau.
Nói trước, bước không
qua. Tiền nhân nói vậy. Nói được mà không làm được thì chỉ là “lẻo mép.” Viết
hay mà làm dở thì cũng vậy, đừng viết lắm mà nắm không xong, đó là dạng “lẻo
bút.” Dù “lẻo” dạng nào nào cũng chết chắc. Bởi vì đó là người di truyền “máu”
Pharisêu, có AND đạo-đức-giả, đúng như Thiên Chúa đã nói: “Dân này tôn kính Ta
bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì
cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.” (Mt
15:8-9) Dạng người như vậy “được” Chúa Giêsu gọi là “mồ mả tô vôi.” (Mt 23:27)
Một cái nickname nghe rất “kêu,” nhưng lại làm cho “nhột gáy” lắm!
Đáng sợ thật, bởi vì trước
mặt Thiên Chúa, mọi người đều bình đẳng, chỉ hơn thua nhau về nhân đức mà thôi.
Mọi người là con cái Chúa thì tất nhiên là anh em với nhau. (x. Mt 23:8) Chắc
chắn Ngài không quan tâm cái CHỨC mà chỉ xét đến cái VỤ. Mười nén, năm nén, ba
nén, thậm chí là nửa nén cũng không thành vấn đề, không quan trọng vốn mà quan
trọng là số lời. Thế thôi! Nhưng ở đời “nhiều chuyện” lắm. Không nói thì bị chê
là hèn nhát, a dua, nịnh hót, theo đóm ăn tàn. Dám thẳng thắn nói thật thì bị
ghét bỏ, trù dập, xa lánh. Giàu có thì bị ghét, đói rét thì bị khinh, thông
minh thì bị triệt, ngu dốt thì bị đì, cỡ gì rồi cũng… chết. Chúa Giêsu cũng chỉ
vì thẳng thắn thật thà mà bị người ta ghét và tìm mọi cách để sát hại.
Cứ bình thường, chẳng nịnh
cũng chẳng chê ai, chẳng luồn cúi cũng chẳng hống hách với ai. Cứ là chính
mình.
ĐGH danh dự Benedict XVI,
khi còn đương nhiệm, đã nhận xét: “Kitô giáo không là triết lý mới hoặc luân lý
mới. Chúng ta chỉ là Kitô hữu nếu chúng ta gặp gỡ Đức Kitô. Chỉ trong mối quan
hệ riêng với Đức Kitô, Đấng phục sinh, chúng ta mới thực sự là Kitô hữu.” Thiên
Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, mỗi người mỗi việc, tùy khả năng nhận được.
Đó là cách Ngài chia sẻ công việc để chúng ta làm mà có thêm công trạng theo
danh chính ngôn thuận, chứ Ngài đâu cần gì chúng ta góp một tay, chỉ một lời
Ngài tuyên phán là có tất cả.
Mang thân phận phàm nhân,
thân tro xác bụi, con người luôn khắc khoải về số phận, luôn thao thức về chính
mình, một hạt bụi nhỏ nhoi mà đầy nỗi gian truân, lắm cảnh đọa đày. Cố NS Trịnh
Công Sơn đã tự vấn: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?” (Cát Bụi) Nhưng ông không
thể giải đáp, nên ông tự nhủ và nhắn nhủ, rồi lại tiếp tục đặt vấn đề: “Đừng
tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng... Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng...
Tôi là ai mà còn ghi giấu lệ, tôi là ai mà còn trần gian thế? Tôi là ai, là ai,
là ai mà yêu quá đời này?” (Tôi Ơi, Đừng Tuyệt Vọng) Cuộc đời như một chu kỳ lẩn
quẩn, không có lối thoát. Biết suy tư là còn sinh tồn. Cõi lòng Thánh Augustinô
cũng luôn như biển động: “Linh hồn con bồn chồn lo lắng mãi cho tới khi được
nghỉ ngơi trong Chúa.” Thánh Vịnh gia kết luận: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.” (Tv 62:2) Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa mới
thỏa mãn chúng ta, vì Ngài là Đầu và là Cuối. (Kh 1:17; Kh 2:8; Kh 22:13)
Liên quan sự phục vụ,
ngôn sứ Êlia cảm nhận: “Lòng nhiệt thành đối với Chúa nung nấu con.” (1 V
19:14) Ước gì mỗi chúng ta cũng cảm thấy như vậy. Biết Chúa và biết mình, điều
nào cũng khó, nhưng cần phải biết Chúa thì mới có thể biết mình: “Lạy Chúa, xin
cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Đó là tâm nguyện của Thánh Augustinô.
Khi biết Chúa rồi, ông cảm thấy hối tiếc và thú nhận: “Con yêu Chúa quá muộn
màng.” Biết Chúa và được yêu Chúa thực sự là một đại phúc cho phàm nhân chúng
ta.
Lạy Thiên Chúa,
xin giúp chúng con chân nhận Ngài là Thiên Chúa chí tôn duy nhất, và xin giúp
chúng con nhận diện chính mình để không ảo tưởng mà ngu chảnh và ngu kiêu, đồng
thời cũng biết sống đúng bổn phận và trách nhiệm hằng ngày. Xin cho mọi người sống
trọn Thánh Ý Ngài, nhất là trong thời gian chịu bách hại vì đại dịch corona hiện
nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con.
Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét