Vấn đề sách giáo dục ở Việt Nam:
cần bắt đầu lại từ đâu?
10/20/2020
Thời gian vừa qua, một
trong những vấn đề xã hội nổi cộm ở Việt Nam là vụ việc lùm xùm quanh bộ Sách
Tiếng Việt 1 trong bộ sách Cánh Diều. Dư luận xã hội và nhiều nhà chuyên môn đã
chỉ ra những vấn đề bất cập của nó, như hình thức và các câu chuyện lộn xộn, rối
rắm, phản giáo dục. Theo nhận xét của PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt, Viện trưởng Viện
Ngôn ngữ và Văn hóa phương Đông, bộ sách này “còn xa mới đáp ứng được các tiêu
chuẩn cần có của bộ sách công cụ mà ta gọi là sách giáo khoa.”[1]
Một nền giáo dục
thiếu triết lý
Tạm bỏ qua nghi vấn về khả
năng ‘gian thương giáo dục’ như nhiều người đang e ngại, điều có thể thấy rất
rõ đó là sự thiếu hụt một nền tảng triết lý mang tính nhất quán của hệ thống
giáo dục nhân bản của đất nước. Chúng ta dễ dàng nhận ra những tư duy ‘khôn lỏi,
ma lanh’ trong các cách diễn đạt và các câu chuyện ngụ ý từ những cuốn sách
giáo khoa. Có thể chính những người biên soạn cũng không cố ý như vậy, nhưng
chính điều đó lại phản ánh một thứ não trạng chung mang tính ích kỷ, tranh đua
đã ăn sâu vào tiềm thức/vô thức của người Việt hiện nay, đến mức ngay cả các
nhà giáo dục cũng không thoát ra được mạng lưới của nó.
Vì thế, việc suy nghĩ và
nghiên cứu về triết lý giáo dục là điều cần phải làm trước khi tiến hành những
kế hoạch tiếp theo. Theo thông tin mới nhất, Bộ Giáo Dục đã quyết định chỉnh sửa,
cải cách bộ sách Tiếng Việt 1 nói trên.[2] Tất nhiên, điều này là cần thiết,
nhưng chỉ mang tính tạm thời trong lúc cấp bách hiện nay. Thiết tưởng nếu không
xây dựng một nền móng triết lý vững vàng thì mọi cải cách sẽ chỉ như xây nhà
trên cát, và vài năm sau chúng ta lại phải ngồi với nhau để phàn nàn và hướng đến
một cải cách khác, như vốn đã diễn ra mấy chục năm nay. Giáo sư Chu Hảo nhận
xét cách xác đáng: “Sự cố này là kết quả tất yếu của các cuộc cải cách giáo dục
hơn hai mươi năm gần đây nhằm đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, nội dung
sách giáo khoa, phương pháp dạy học, cách thức thi tốt nghiệp phổ thông và tuyển
sinh vào đại học…đều không dựa trên một triết lý, một tư tưởng hay một lý luận
giáo dục rõ ràng và nghiêm chỉnh nào. Tất cả chỉ là các dự án, đổi mới mang
tính chắp vá.”[3] Những cải cách kiểu đó không chỉ hoài phí tiền thuế và làm cạn
kiệt niềm tin của người dân, mà quan trọng hơn là biến những thế hệ trẻ em ở đất
nước này thành những chú chuột bạch.
Có thể xây dựng triết lý giáo dục như thế nào?
Để hình thành một hệ thống triết lý giáo dục với nền tảng siêu hình vững vàng là điều rất khó khăn, nhất là với một đất nước yếu về triết học như Việt Nam. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta không thể tìm kiếm một phương hướng triết lý giáo dục cho mình được. Đơn giản vì chúng ta vẫn có thể thực hiện hai điều sau: (1) Nghiên cứu và học hỏi từ triết lý của các nền giáo dục tiên tiến khác; (2) xác định thêm những điểm triết lý đặc thù trong tâm thức và văn hoá người Việt Nam.
Về cơ bản, dù ở đâu, con
người cũng chia sẻ những giá trị chung. Chúng ta hay nhấn mạnh đến khía cạnh
khác biệt, đặc thù của mỗi dân tộc. Điều đó không sai, vì thực sự văn hoá ảnh
hưởng rất lớn đến con người. Tuy nhiên, việc nhấn mạnh đó nhiều khi khiến ta
quên rằng có những giá trị và nền tảng cốt lõi chung cho mọi người, ví dụ: ai
cũng muốn được hạnh phúc, được yêu thương, được tôn trọng và trở nên hữu ích.
Vì vậy, việc giáo dục con người ở mọi nơi đều có những điểm căn bản chung có thể
áp dụng cho mọi dân tộc, mọi nền văn hoá.
Còn về khía cạnh đặc thù trong triết lý giáo dục của Việt Nam: nếu nói rằng Việt Nam chưa có nền tảng triết lý giáo dục nào cũng không hẳn đúng, vì chúng ta từng theo hệ hình của Nho học trong một thời gian dài; rồi sau khi tiếp thu hệ hình Tây học, các nhà trí thức lớn thời đầu, như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh,.. cũng đã xây dựng được các chương trình giáo dục quy củ và có nền tảng. Đặc biệt, cho đến trước khi kết thúc chiến tranh vào năm 1975, nền giáo dục Miền Nam Việt Nam đã kế thừa và phát triển chương trình của các vị học giả này, để xác lập một triết lý giáo dục khá hệ thống là ‘nhân bản – dân tộc – khai phóng’. Và điều quan trọng hơn cả: chúng ta có một truyền thống giáo dục nhân bản trong gia đình và làng xóm, với những hệ giá trị rất rõ nét được thừa nhận qua nhiều thế hệ.
Vì vậy, dù dường như
chúng ta chưa từng có một nền triết lý được biện giải và phân tích cách có hệ
thống và hoàn chỉnh, nhưng chúng ta lại có sẵn những giá trị triết lý mang tính
quy chiếu rất rõ ràng trong gia sản của truyền thống văn hoá và tâm thức của
dân tộc mình. Theo thiển ý người viết, chúng ta có thể liệt kê 5 giá trị nhân bản
mang tính nền tảng đó như sau:
(1) Đạo hiếu. Trong tâm thức người Việt, đây là
giá trị nền tảng trong tương quan với gia đình.
Chính những giá trị đó
đóng vai trò định hướng cách ứng xử và lối sống của từng cá nhân; và chúng trở
thành các điểm quy chiếu để xác định đạo đức và luân lý của người Việt.
Cần giao cho ai nghiên cứu?
Sau khi xác định được phương hướng nghiên cứu về triết lý giáo dục, vấn đề quan trọng còn lại phải đặt ra: nhiệm vụ nghiên cứu này nên đặt vào những ai?
Một trong những vấn nạn ở Việt Nam là nhiều người làm việc theo ‘chức vụ’ và ‘nhiệm vụ chính trị’ thay vì ‘chuyên môn chuyên biệt’. Ông Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Tài Nguyên Môi Trường, đã can đảm chỉ ra, “tôi cho rằng lỗi lớn là ta đã ghép ‘giáo dục’ thế hệ trẻ và ‘đào tạo’ người lớn vào chung một bộ. Kể từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo được thành lập, tất cả bộ trưởng đều từ khu vực đại học, các việc lớn đều do bên đại học chủ trì. Một giáo sư ngữ văn, lịch sử hay địa lý có thể rất giỏi chuyên môn, nhưng sẽ trở thành vô nghĩa nếu không rành về tâm lý giáo dục trẻ em.”[4]
Vì vậy, trước hết, cần trao quyền nghiên cứu và làm việc độc lập cho các bộ/viện chuyên về giáo dục, với những người có chuyên môn chuyên biệt. Nhưng cũng cần lưu ý: nhiều người được xem là có ‘chuyên môn’, là ‘nhà sư phạm’ trong thế hệ hiện nay lại có nguy cơ là những ‘chuyên gia trong phòng máy lạnh’. Nghĩa là kết quả nghiên cứu của họ đến từ suy nghĩ chủ quan và mang nặng tính lý thuyết. Vì thế, cần phải có những nhà chuyên môn sư phạm có tâm và tầm thật sự trong sứ mạng này.
Chúng ta có rất nhiều người Việt tài năng, có chuyên môn hoặc tư chất về giáo dục, ở trong nước lẫn khắp nơi trên thế giới. Rất nhiều người trong số họ luôn có tâm huyết và nặng lòng với nước nhà. Vì vậy, tôi tin rằng chỉ cần mở ra một cơ chế thông thoáng, mời họ làm việc, đóng góp cho nền giáo dục nước nhà, thì hẳn nguồn nhân sự cần thiết cho sự mạng này không còn là vấn đề.
Giáo dục, xét cho cùng không phải là chuyện của riêng ai, hay của một nhóm người nào. Vì thế, ước mong không ai thờ ơ với giáo dục, không ai tìm cách trục lợi từ giáo dục, và cũng không ai tìm cách áp đặt ý thức hệ riêng của mình lên giáo dục!
[1] khoahocdoisong.vn. Cập nhật 18/10/2020.
[2] vietnamnet.vn-Cập nhật
18/10/2020.
[3] x.giaoduc.net.vn -
Đăng ngày 13/10/2020.
[4] vnexpress.net. Cập nhật
18/10/2020.
Khắc Bá, SJ
(vaticannews.va
20.10.2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét