Cô thôn
* Cô thôn * Cô thôn
(Sat, 25/10/2014 - Trầm Thiên Thu
– Thanhlinh.net)
Cô thôn là ngôi làng
nhỏ, hẻo lánh, trơ trọi một mình, tĩnh lặng, mặc vẻ cô đơn. Danh từ “cô thôn” gợi cảm giác của một “khoảng buồn” nào đó. Trong thi phẩm “Cảnh Chiều Hôm” – bài thơ Đường (thất
ngôn, bát cú), nữ thi sĩ Bà Huyện Thanh Quan đã khéo léo lồng vào vẻ quạnh hiu
và lặng lẽ của buổi chiều ở miền quê. Bà mô tả:
Trời chiều
bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục
tử lại cô thôn
Trong đó có những âm thanh và những hình ảnh quê hương phảng
phất nỗi nhớ nhà bâng khuâng, thâm trầm, xa vắng,... Có lẽ ai đã từng sinh
trưởng ở miền quê nghèo, rồi vì sinh kế mà phải xa nhà, thì mới khả dĩ cảm nhận
được nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có ông bà, cha mẹ,
anh chị em, bạn bè, xóm giềng,... Miền quê rất kỳ lạ, thôn dã tĩnh lặng nhưng
tình người luôn như biển động, thắm thiết tình làng, nghĩa xóm. Cái tĩnh động
đó khó quên được, nhất là vào lúc hoàng hôn, chất thi vị như ùa tràn, ngồn ngộn
cả khoảng trời quê, khó tả...
Cô thôn luôn mặc vẻ
trầm buồn, nhưng mỗi nỗi buồn đều khác nhau, với mức độ khác nhau, chiều sâu và
chiều rộng cũng khác nhau,...
Có một “ngôi làng” rất đặc biệt, loại “cô thôn” đặc biệt nhất trong các làng
mạc có nét gì đó “khác lạ”. Dù ở
những nơi hẻo lánh nhất, cô thôn cũng vẫn có sức sống và ít nhiều hoạt động.
Riêng “ngôi làng đặc biệt” muốn nói ở
đây lại khác hẳn. Mỗi người ở riêng một nhà, không ai ở với ai, không ai nói gì
với ai, không gian tĩnh lặng như tờ suốt ngày suốt đêm. Tại “cô thôn” này, người ta như những người
ngủ mơ, không bon chen, không so đo, không hờn giận, không chê trách nhau,
không thù hận,... Vào những ngày đặc biệt, khói tỏa nghi ngút, nhìn rất lạ!
Bạn đã từng nhiều lần
đến thăm “cô thôn” đó. Bạn biết “cô thôn” đó là gì và ở đâu?
Vâng, “ngôi làng hẻo lánh” đặc biệt đó vừa lạ
vừa quen, có tên là Nghĩa Trang [cũng gọi là Nghĩa Địa, đôi khi còn gọi là “bãi tha ma”. Anh ngữ: Cemetery, Pháp
ngữ: Cimetière]. Từ này có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp là κοιμητήριον,
nghĩa là “nơi an nghỉ”. Tại đây,
chúng ta thấy có dấu hiệu riêng là Thánh Giá và ba chữ viết tắt: R.I.P. (Requiescat
in Pace – Xin hãy nghỉ yên). Đó là Miền Tĩnh Lặng, là Cõi Tịch Liêu rất đặc
trưng!
Dọc ngang “cô thôn” Nghĩa Trang có những “căn nhà nhỏ” (ngôi mộ – ngày nay thường
được làm giống nhau về cả hình thức lẫn kích cỡ, nói lên “sự bình đẳng”). Những con người đang nằm yên nơi đó, đủ lứa tuổi,
đủ trình độ, đủ giai cấp. Họ cũng đã một thời cùng sinh hoạt, cùng ăn uống,
cùng ngủ nghỉ,... với chúng ta, nhưng giờ đây, họ hoàn toàn bất động. Tất cả
đều im lặng, không gian hoang vu, chỉ có tiếng gió reo đùa với cỏ cây, đêm về
có côn trùng hòa điệu ru buồn...
Cuộc đời ngắn hay dài
thì cũng trong khoảng trăm năm, giờ đây chỉ còn “một nấm cỏ khâu xanh rì” (Truyện Kiều – Nguyễn Du), gom lại một “bia đá”, với vài chi tiết: Tên thánh,
họ tên, ngày sinh, ngày mất. Chỉ thế thôi! Với ai cũng bấy nhiêu, dù giàu hay
nghèo, dù sang hay hèn, dù cao hay thấp, dù giỏi hay dốt. Và theo thời gian,
tất cả sẽ đi vào quên lãng! Theo tục lệ người Việt là “mãn tang”, khép lại khoảng ba năm.
Với người không có
niềm tin tôn giáo, đặc biệt là đức tin Công giáo, như vậy là hết. Chó chết thì
hết chuyện. Nhưng với người có niềm tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã
chịu chết và đã phục sinh khải hoàn, “cửa
tử” là ngưỡng cửa bước vào sự sống đời đời. Tử thần hoàn toàn “bó tay” và phải tâm phục khẩu phục khi
Đức Kitô bất ngờ sống lại.
Những người “cư ngụ” tại “cô thôn” Nghĩa Trang đang chờ ngày được sống lại: “Ý của Đấng đã sai tôi
là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ
cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:39). Thiên Chúa muốn như thế, nhưng Ngài cũng
cảnh báo: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng
chót. Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” (Mt 20:16; Mt 22:14). Và rồi chúng ta cũng
vậy, kẻ trước, người sau. Nhưng thật hạnh phúc khi chúng ta vững tin cậy vào
Thiên Chúa, vì nếu chúng ta “cùng chết với Đức Kitô
thì chúng ta cũng sẽ được cùng sống lại với
Ngài”
(Rm 6:8). Đó là điều chắc chắn. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh chân nhận: “Chúa chẳng đành bỏ
mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv
16:10). Chính “cô thôn” đó sẽ trở thành “lạc viên”, và những thân xác nằm ở đó
sẽ được về Miền Cực Lạc là Thiên Quốc.
Thánh Phaolô cho biết: “Thiên
Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết
vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với
Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống
lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời”
(Ep 2:4-6).
Thiên Chúa là tình
yêu, nhưng Thiên Chúa cũng vô cùng công bình và rạch ròi: “Nợ
máu Chúa không tha, nhưng hãy còn nhớ mãi, tiếng những người
nghèo khổ, Chúa chẳng quên bao giờ” (Tv 9:13). Có thể chúng ta không may mắn được chứng
kiến giờ Chúa Giêsu quang lâm – tận thế, nhưng chắc chắn ai cũng có ngày tận
thế riêng: Lúc chết. Tuy nhiên, chúng ta đừng nghe bất cứ ai hoặc bất cứ lời
đồn thổi nào, chính Chúa Giêsu đã nói rõ về ngày Ngài quang lâm: “Trời
đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. Còn về ngày và giờ đó
thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người
Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt
24:35-36; xem thêm Mc 13:33 và Lc 17:26-30, 35-36).
Ai chết trong lúc còn
mắc tội nhẹ (khinh tội), không phải sa Hỏa Ngục nhưng phải vào Luyện Ngục một
thời gian để chịu thanh luyện bằng lửa, chờ passport hoặc visa vào Nước Trời.
Đó chính là các linh hồn nơi Luyện Hình, thuộc Giáo hội Đau khổ. Hiện nay, họ
không còn làm được gì để tự cứu mình, vì thế họ rất cần chúng ta – các sinh
linh còn tại thế – giúp họ rút ngắn thời gian thanh luyện, nhờ đó mà họ sớm
được hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa muôn đời.
Khoảng buồn sầu và đau
khổ luôn dài hơn khoảng vui mừng và hạnh phúc. Chúng ta thường nghe nói: “Nhất
nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Tương tự, Thánh Vịnh cũng nói: “Một
ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày” (Tv 84 11).
Các linh hồn nơi Luyện
Hình khao khát Chúa hơn chúng ta hiện nay, vì các linh hồn đã biết thế nào là
đau khổ khi phải xa cách Chúa. Thánh Vịnh đã cầu nguyện thay các linh hồn: “Xin
rủ lòng thương con, lạy Chúa, xin kéo con lên khỏi ngục tử thần, để con dâng
muôn lời ca tụng Chúa” (Tv 9:14-15a). Chúng ta hãy cầu thay nguyện giúp vì
yêu mến các linh hồn, và cũng chính là cầu xin cho chính mình: “Xin đưa
con ra khỏi chốn ngục tù, để con cảm tạ danh thánh Chúa” (Tv 142:8).
Thánh Gióp đã từng
khiêm nhường thưa với Thiên Chúa: “Con đây tầm thường bé nhỏ, biết nói
chi để trả lời Ngài? Con sẽ đưa tay lên che miệng. Đã nói một lần rồi, con
không lặp lại nữa, có nói lần thứ hai, cũng chẳng thêm được gì!” (G 40:4-5).
Chúng ta chẳng là gì, nhưng chúng ta được Thiên Chúa nhận làm con cái, Ngài
muốn chúng ta cầu xin để chính chúng ta được lợi ích. Ngài biết hết, nhưng Ngài
muốn chúng ta xin Ngài để chứng tỏ chúng ta yêu mến Ngài: “Lạy Chúa, Ngài dò xét
con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài
thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi,
Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am
tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên
con” (Tv 139:1-5).
Không ngừng cầu xin
cho các linh hồn và cầu xin cho chính mình, đó là điều cần thiết, đồng thời
chúng ta PHẢI biết kết hợp với Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô để mọi động thái hy
sinh của chúng ta mới có giá trị. Thánh Phaolô đã cho biết: “Nếu ta
cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta
sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu
ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối
bỏ chính mình” (2 Tm 2:11-13).
Lời cầu nguyện thật kỳ
lạ, là “sức mạnh” của con người khiến
Thiên Chúa “mềm lòng”. Lời cầu nguyện
có tác dụng và giá trị cao, hiệu quả không chỉ cho chính mình mà còn hiệu quả
cả khi chúng ta cầu xin cho người khác – người sống và người chết. Thời Cựu
Ước, ông Tô-bít đã khuyên con trai Tô-bi-a: “Con
hãy dùng của cải bố thí cho tất cả những ai thực thi công chính, và khi bố thí,
mắt con đừng có so đo. Đối với ai nghèo khổ, con đừng ngoảnh mặt làm ngơ, để
rồi đối với con, Thiên Chúa cũng sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ. Tùy con có bao
nhiêu, hãy cho bấy nhiêu; có nhiều thì cho nhiều, có ít thì đừng ngại cho ít.
Như thế là con tích trữ một vốn liếng vững chắc cho những ngày gian nan. Thật
vậy, việc bố thí cứu cho khỏi chết và không để rơi vào cõi âm ty. Vì trước nhan
Đấng Tối Cao, của bố thí là một lễ vật quý giá cho những ai làm việc bố thí”
(Tb 4:7-11).
Sự thật là thế, vì
Thiên Chúa hằng hữu chứ không phải một vị thần do con người tạo ra như người ta
lầm tưởng. Năm 1964, Nga phóng phi thuyền lên mặt trăng và đem theo các phi
hành gia để khám phá hành tinh mệnh danh là Chị Hằng. Khi trở về trái đất, một
phi hành gia tuyên bố: “Tôi chẳng thấy Chúa nào cả!”. Đúng là tư
tưởng vô thần, luôn cố chấp và kiêu ngạo. Có lẽ họ tưởng Thiên Chúa là một vị
thần có thể nhìn thấy và sờ được, có thể định vị ở chỗ này hoặc chỗ nọ theo
dạng phần mềm “định vị toàn cầu”
chăng? (sic!). Khoa học tiến bộ là điều tốt, nhưng khoa học đức tin có tiến bộ
hay không?
Thiên Chúa là Chúa của
các chúa, Vua của các vua, Thần của các thần. Ngài có tất cả, nhưng Ngài chấp
nhận vô sản vì yêu: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người
KHÔNG có chỗ tựa đầu” (Mt 8:20; Lc 9:58).
Các linh hồn cũng đã
cả đời tin vào Đức Kitô, nhưng giờ đây, họ chưa được diện kiến Thánh Nhan Thiên
Chúa, đang chịu thanh luyện trong “Lửa
của các loại lửa”, họ chịu đau khổ tột cùng vì phải xa cách Thiên Chúa, họ
ở một nơi còn hơn là “cô thôn”, vì đó
là “vũng lầy đau khổ”, và chắc chắn
họ “nhớ nhà” lắm. Vì mối quan hệ yêu
thương trong tình liên đới của Nhiệm Thể Đức Kitô, chúng ta hãy hy sinh và cầu
nguyện cho các linh hồn, nhất là trong Tháng Mười Một này.
Lạy Thiên Chúa nhân
từ, xin xót thương tha thứ cho các linh hồn được yên nghỉ trong Tình Chúa muôn
đời. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu, vì Máu Thánh cứu độ của Đức
Kitô, vì Nước Mắt của Đức Maria, xin thương xót các linh hồn. Chúng con cầu xin
nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét