Vua Tình Yêu
(Chúa Nhật XXXIV TN, năm A – Lễ Chúa Kitô
Vua)
(Sat, 15/11/2014 - Trầm Thiên Thu-thanhlinh.net)
Xã hội trần gian được
phân chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia. Mỗi quốc gia có
một vị đứng đầu với quyền tối thượng, gọi là nguyên thủ quốc gia. Tùy thời mà
người ta gọi vị đó bằng các danh từ khác nhau: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng
Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,... Các nước cộng sản
gọi vị đó là Chủ Tịch Nước. Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo hoàng.
Quan nhất thời, dân
vạn đại. Nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền
lực, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh viễn, thường tồn, bất biến, và có quyền tối
thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục” (Lc 12:5). Khi bị thế lực trần
gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thẳng thắn nói với Philatô là người có toàn quyền
trong tay: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho
ngài” (Ga 19:11).
Trong Hán tự, chữ 王 [wáng] là vương (vua). Ba “gạch
ngang” tượng trưng cho Thiên – Nhân – Địa, và được nối kết bằng một “gạch đứng”, ý nói “vua là người nối kết trời, đất và con người”. Hán
tự thâm thúy quá!
Vua trần gian còn như
vậy, huống chi Vua Kitô. Vâng, Chúa Giêsu là Đệ Nhất Thiên Vương, Vua các vua
và Chúa các chúa, thế nhưng Ngài lại hạ mình đến tận cùng vì yêu thương các
thần dân. Thật lạ, vì Ngài là Vua-đa-không, hoàn toàn trái ngược với các vua
chúa trần gian: KHÔNG ngai, KHÔNG đăng quang, KHÔNG vương miện, KHÔNG vương
trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng làm
việc, KHÔNG nghi thức, KHÔNG thiết triều,... Thậm chí Ngài còn SINH nơi hang
động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Tại sao vậy? Chính Chúa
Giêsu đã xác định với Tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế
gian này” (Ga 18:36). Tuy nhiên, Ngài lại có quyền tối thượng: “Chúa
Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha
có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình
như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người”
(Ga 5:22, 26-27).
VUA NHÂN LÀNH
Vua chúa trần gian là
Thiên Tử, là Con Trời, hét ra lửa, có quyền sinh sát trong tay: “Quân
xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Khủng khiếp quá! Còn Chúa Giêsu khác
hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài trả lời: “Chính ngài
nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm
chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37).
Vua Giêsu luôn chạnh lòng thương, luôn động lòng trắc ẩn, giàu lòng thương xót,
đến thế gian để cứu những gì đã mất, và Ngài đưa ra lời khuyên: “Hãy
học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”
(Mt 11:29). Là Thiên Vương nhưng Vua Kitô Giêsu lại là Vua Nhân Lành, là
Mục Tử Nhân Hậu, là Người Cha từ tâm, là Quan Tòa nhân ái.
Quả thật, Đức Chúa là
Chúa Thượng phán thế này: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên
của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào
ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta
như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen
mù mịt” (Ed 34:11-12). Khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài đang ở bên
chúng ta. Khi cuộc đời chúng ta êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc
đời chúng ta như lâm vào ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà Ngài còn vác
chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự là vậy, nhưng vì phàm nhân
yếu đuối, thế nên chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo!
Thiên Chúa đã nói rất
rạch ròi: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm
nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị
thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập,
con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt
chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta
sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê” (Ed 34:15-17). Ngài không “bỏ qua” bất cứ ai, người nào càng bất
hạnh càng được Ngài thương xót nhiều. Thật vậy, Ngài không so đo hơn thua, chấp
nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để rong ruổi tìm cho được MỘT con chiên xấu
xí, ốm yếu, hôi tanh (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7).
Trong số các vua chúa
trần gian, có mấy người đích thân vi hành để biết dân tình ra sao? Mấy ai được
như Hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa? Ông là
vị vua thật tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ Tổng
thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Đến nơi nào
thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng,
và nghe “báo cáo”, liệu có bao nhiêu
phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào!
Làm láo, báo cáo hay!”.
Ở cấp thấp hơn cũng
chẳng khá hơn, tỉnh trưởng hoặc quận trưởng, trong số đó có bao nhiêu người
thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân? Rồi giám mục hoặc linh mục, trong
số đó có bao nhiêu người tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của
họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có chức nên có quyền, đủ lý lẽ biện hộ, khó mà
thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những
điều “nhạy bén” tương tự như vậy,
chắc hẳn nhiều người cũng cảm thấy “dị
ứng” lắm!
Thật ấn tượng với Đức
cố Giám mục Jean Cassaigne (1895-1973), gọi thân thương là Cha Sanh, nhà truyền
giáo của dân tộc Kơ Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh
danh là Tông Đồ Người Cùi. Khi còn là Giám mục GP Saigon, ngài thường dùng
chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên
mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt Nam, đặc biệt là những người dân tộc
và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương làm sao sống được vậy? Đó là phong
cách của thánh nhân!
Biết nhiều, khổ nhiều;
thấy nhiều, chán nhiều, nghe nhiều, “nóng
gáy” nhiều. Làm ngơ thì người ta nói mình “sợ”, nói ra thì người ta “không
ưa”. Thẳng thắn sẽ “va chạm”, chỉ khổ mình, nhưng không thể
làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ “vào hùa”
lắm. May mà có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Tác giả Thánh Vịnh
chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng
thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi
tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo
chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3). Ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ
trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy!
Đức tin phải được tôi
luyện trong nhiều nỗi gian truân hoặc đoạn trường thì mới có thể dần dần trở
nên “tinh ròng”, và lúc đó chúng ta
mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn,
vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho
con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu
con đầy tràn chan chứa” (Tv 23:4-5). Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ thêm: “Lòng
nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:6). Hạnh phúc quá! Nhưng
hạnh phúc đó không thể cứ sống tà tà mà có được. Vâng, Thiên Chúa là Đấng cầm
quyền sinh tử (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để mặc chúng ta lâm vào ngõ cụt. Tại sao? Vì bản
chất của Ngài là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), mà tình yêu là bất tử.
VUA HẰNG SINH
Như chúng ta đã biết,
Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Đệ Nhất Hàn Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài
đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Ngài là Vua mà cuộc sống như vậy, làm sao chúng
ta có thể sống khác?
Chúa Giêsu là Vua của
người sống chứ không là Vua của kẻ chết. Thật vậy, dù Ngài bị người ta ghen
ghét “tới bến” và đã giết Ngài chết
thê thảm, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, cai trị cả Tử thần (x. 1 Cr
15:25), và trở thành Vua Hằng Sinh. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Đức
Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu
tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được
sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thì mọi
người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người
theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến
lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu
diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền
lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:20-24).
Chúa Giêsu đã đau khổ
tột cùng nên Ngài có toàn quyền. Thánh Phaolô cho biết: “Thật vậy, Đức
Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân
Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã
đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể
Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô” (1 Cr 15:25-27). Đức Kitô là chính
Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT mà thôi: “Lúc
muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục
Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn
quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28).
Thời quân chủ, vua cho
sống thì được sống, vua bảo chết thì phải chết, không muốn cũng phải tuân lệnh.
Cái chết đó được coi là trung thành. Có những trung thần đã dám xin được chết
để minh chứng lòng trung thành với vua. Người ta không được phép nhìn mặt vua
và phải tránh những chữ có “liên quan”
nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh,...), thậm chí muốn
tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua: “Muôn tâu bệ hạ” –
tức là tâu cái bệ rồng của vua ngồi mà thôi. Ui da! Cái ghế vua ngồi còn đáng
giá hơn thần dân. Nhưng với Vua Giêsu, không sợ “phạm húy”, cứ thưa thẳng: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội
chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài”.
Chúa Giêsu là Vua
nhưng Ngài không hề được tiền hô hậu ủng, không hề xa giá, chỉ một lần duy nhất
được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp Lễ Quá
Hải (Vượt Qua), thế nhưng chỉ vài ngày sau là họ lật mặt nhanh hơn trở bàn tay: “Đóng
đinh nó vào Thập Giá” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15).
Lạy Chúa tôi! Chúng ta cũng chẳng hơn gì đâu!
Suốt những năm hoạt
động mục vụ, hàng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các
hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người cùng đinh
nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là vua, trong tay đầy
quyền lực, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như lời Ngài nói: “Ai làm lớn
phải phục vụ” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45). Ngài không cậy quyền, không ỷ
thế, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành luôn song song,
thậm chí Ngài còn làm nhiều hơn nói. Ngài không chỉ là Vua Nhân Lành, Vua Hằng
Sinh, Vua Tình Yêu, Vua Lòng Thương Xót, mà Ngài còn là Vua Công Bình. Vô cùng
may mắn khi chúng ta là thần dân của Vị Vua này!
VUA
CÔNG BÌNH
Phụng vụ lễ Chúa
Kitô Vua năm A dùng trình thuật Mt 25:31-46 nói về ngày Chúa quang lâm xét xử
nhân loại. Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế, dễ hiểu và gần gũi: Chiên và Dê.
Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu
hoặc phản ứng và có hình dáng “dễ
thương”; dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt”. Chiên là người lành, dê
là kẻ dữ.
Chúa Giêsu đã vâng lời
Chúa Cha và chịu chết để cứu độ nhân loại, thế nên Ngài có quyền phân xử, nhưng
hoàn toàn công minh chính trực. Khi Ngài đến thế gian lần thứ hai có các thiên
sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ
trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê.
Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu nói
với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc,
hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập
địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là
khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu,
quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han” (Mt 25:34-37).
Họ ngạc nhiên họ chưa
một lần thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, là khách lạ mà tiếp rước,
trần truồng mà cho mặc, đau yếu hoặc ngồi tù mà thăm viếng giúp đợ. Nhưng Chúa
Giêsu bảo: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em
bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:41).
Rồi Đức Vua nói với
những người ở bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi
mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa
Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là
khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc;
Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-44).
Họ cũng ngạc nhiên và
phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho
một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Tôi vậy” (Mt
25:46).
Hết cách phân minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là
công bình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập
tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng vốn sống thế nào
để
sinh lời (Mt 25:14-30),
và thực
hành đức ái (Mt 25:31-46).
Ngài không thiên vị
ai, không thể lấy cớ mình là “ông này”
hoặc “bà nọ” để mong được “ưu tiên”.
Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính”, thích đùa
dai. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi hằng
năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn “bình chân như vại”, thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha
bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không ngoài danh sách. Cứng lòng
hay tự mãn?
Nhìn thấy Chúa trong
người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều Chúa Giêsu đề cao: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ,
yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện
cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là tha
nhân, là bất kỳ ai, dù không quen biết, thậm chí là kẻ thù. Thật tuyệt vời với
cách suy luận của đại văn hào Victor Hugo: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã
cho Thượng đế vay”.
Lòng thương xót cũng
chính là tình yêu thương, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1),
Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ đợi chúng ta sám hối, đợi chúng
ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, điển hình là đến
với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Không được tha thứ là tại chúng ta
quá cố chấp mà thôi! Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến quyền
lợi, không mấy ai nói đến bổn phận”. Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta đủ điều, nhưng
lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né “cái khó” càng nhiều càng tốt. Vậy là
chúng ta không công bằng với Chúa đấy!
Lạy Thiên Vương Giêsu
Kitô, xin thương tha thứ, nâng đỡ, che chở, độ trì, soi sáng và hướng dẫn chúng
con trong Cung Đường Tình Yêu cao cả và tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngài là Đấng
Cứu Độ hằng sinh, đồng hiển trị cùng Thiên Chúa Chúa, hiệp nhất với Thiên Chúa
Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét