Thượng Hội Đồng về Gia Đình,
cuộc khủng hoảng hôn nhân và Phép Thánh Thể
(Tue,
30/06/2015 - Vũ Văn An - Vietcatholic.net)
Thượng Hội
Đồng về Gia Đình năm 2015 sắp sửa nhóm họp vào Mùa Thu này. Văn Phòng Tổng Thư
Ký của Thượng Hội Đồng, ngày 23 tháng 6 vừa qua đã công bố Tài Liệu Làm Việc.
Bầu không khí chuẩn bị vì thế càng lúc càng sôi động. Thực ra, bầu không khí ấy
đã sôi động ngay từ trước đó. Thực vậy, ngày 18 tháng 6, 2015, Hội Đồng Giáo
Hoàng về Gia Đình đã cho đăng tải bài tham luận của Đức Hồng Y Ennio Antonelli,
nguyên chủ tịch của Hội Đồng, nhiệm kỳ 2008-2012. Tham luận này cực lực chỉ
trích đề xuất cho phép người Công Giáo ly dị và tái hôn dân sự được rước lễ. Nó
cho biết nhiều điều rất hữu ích về “luật tiệm tiến” là điều Đức TGM Bruno
Forte, Thư Ký Đặc Biệt của Thượng Hội Đồng, coi là chìa khóa để hiểu Tài Liệu
Làm Viêc. Tựa của tham luận là “Cuộc Khủng Hoảng Hôn Nhân và Phép Thánh Thể”.
Đào tạo
những gia đình Kitô Giáo gương mẫu
Trong phần
nhập đề, Đức Hồng Y Antonelli tin rằng điều khẩn thiết chính của mục tiêu mục
vụ hiện nay là đào tạo các gia đình Kitô Giáo gương mẫu, có khả năng làm chứng
một cách cụ thể rằng hôn nhân Kitô Giáo là điều đẹp đẽ và có thể thể hiện trọn
vẹn được.
Theo ngài,
trong bối cảnh văn hóa hậu Kitô Giáo ngày nay, các trách vụ cần thiết đối với
việc chăm sóc mục vụ các gia đình phải như sau:
1. Giáo
dục trẻ em và thanh thiếu niên trong lý thuyết và thực hành về tình yêu
theo Kitô Giáo, hiểu như việc hiến mình cho người khác và như một hiệp thông
biết kính trọng các dị biệt;
2. Chuẩn
bị hôn nhân kỹ càng cho các cặp đính hôn, để hôn nhân thành sự và sinh hoa
trái, bằng những cuộc hành trình được xén tỉa phù hợp với tình huống tâm linh,
văn hóa và xã hội khác nhau;
3. Tiếp
tục đào luyện các cặp vợ chồng, nhất là các cặp vợ chồng trẻ, bằng các buổi
gặp gỡ định kỳ xen kẽ vào các chương trình mục vụ hàng năm, do các tác nhân
xứng hợp trình bầy (thí dụ các cặp vợ chồng có kinh nghiệm), và lưu tâm thích
đáng tới các đóng góp của các cộng đoàn nhỏ, các phong trào và hiệp hội.
Nói thế
rồi, Đức HY Antonelli thú nhận rằng chủ đề mà ngài quan tâm vừa khó khăn vừa
quan trọng, đó là khả thể cho phép người ly dị tái hôn được rước lễ. Ngài muốn
được góp một số suy nghĩ về chủ đề này để chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng sắp tới,
với hai thái độ từng được Đức Phanxicô khuyến khích đó là parrhesia
(mạnh dạn) và khiêm nhường: thành thực phát biểu tư tưởng và lắng nghe người
khác một cách kính trọng và sẵn sàng tiếp nhận sự sửa sai huynh đệ hướng tới
hồi tâm. Chỉ có thế, ta mới mong phong phú hóa cho nhau và cùng nhau hướng tới
sự chân và sự thiện.
Ngài muốn
đề cập tới các vấn đề sau đây: bản chất gắn bó và hoàn hảo của các thực hành
mục vụ đã được phép từ trước tới nay; các thay đổi được đề nghị và các luận bác
đối với chúng; các yếu điểm của điều gọi là Luật Tiệm Tiến (law of gradualness)
và các đề nghị nhằm đưa ra các tiêu chuẩn tổng quát đối với việc cho phép người
ly dị tái hôn được rước lễ; tín lý đã được xác định vững vàng liên quan tới
tính bất khả tiêu của hôn nhân Kitô giáo; tình yêu dâng hiến trong tương quan
với tính thành sự của hôn nhân; phúc âm hóa chân chính cần thiết cho một việc
tông đồ truyền giáo có hiệu quả.
Các quan
điểm tín lý và kỷ luật hiện hành
Do ý muốn
của Chúa Kitô, hôn nhân bí tích, một khi đã thành sự và hoàn hợp, thì bất khả
tiêu. Mọi phân ly giữa vợ chồng đều chống lại ý muốn của Người. Bất cứ cuộc kết
hợp mới nào của một người phối ngẫu ly thân đều bất hợp pháp và tạo nên một bất
trật tự nặng nề và tồn lưu về luân lý; nó tạo ra một tình trạng mâu thuẫn khách
quan với giao ước phu phụ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, đã được biểu tượng và thể
hiện qua Phép Thánh Thể. Bởi thế, người ly dị và tái hôn không thể được phép
rước lễ, trước nhất, bởi lý do thần học và sau đó, bởi trật tự mục vụ. “Giáo
Hội tái khẳng định thực hành của mình, một thực hành đặt căn bản trên Sách
Thánh, không cho phép những người ly dị tái hôn được rước Thánh Thể. Họ không
thể được phép như thế do sự kiện: tình trạng và điều kiện sống của họ mâu thuẫn
khách quan với sự kết hợp tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, một sự kết hợp
vốn được biểu tượng và thể hiện qua Phép Thánh Thể. Ngoài điều đó ra, còn một
lý do mục vụ nữa là: nếu những người này được phép rước lễ, các tín hữu sẽ bị
dẫn vào lầm lạc và lẫn lộn về giáo huấn của Giáo Hội đối với tính bất khả tiêu
của hôn nhân” (Familiaris Consortio, 84).
Việc không
cho phép rước lễ này sẽ tiếp diễn suốt thời kỳ sống cuộc hôn nhân bất hợp pháp.
“Nếu các người ly dị tái hôn theo dân luật, họ sẽ rơi vào một tình huống mâu
thuẫn khách quan với lề luật Thiên Chúa. Thành thử, họ không thể rước lễ bao
lâu tình huống này còn kéo dài” (Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo
[SGLCGHCG],số 1650). Việc không cho phép này không kỳ thị người ly dị tái
hôn nếu đem so sánh với các tình huống bất trật tự khách quan hay gương mù
gương xấu công khai nặng nề khác. Bất cứ ai có thói quen văng tục phải cố gắng
hết mình để sửa sai; bất cứ ai ăn trộm phải đền trả; bất cứ ai làm hại người
lân cận, về vật chất hay tinh thần, đều cần đền bù thiệt hại. Không thực sự cam
kết hồi tâm, sẽ không có xá tội theo bí tích và không được phép rước lễ. Không
được phép như thế những ai “ương ngạnh trì chí trong tội nặng rõ ràng” (Giáo
Luật, điều 915). Rõ ràng không thể có luật trừ cho những người ly dị tái
hôn không chịu cam kết.
Tuy nhiên,
loại trừ khỏi rước lễ không có nghĩa là loại trừ khỏi Giáo Hội, chỉ có nghĩa
một hiệp thông không đầy đủ với Giáo Hội mà thôi. Người ly dị tái hôn tiếp tục
là các chi thể của Giáo Hội; họ có thể và nên tham dự vào đời sống và các hoạt
động của Giáo Hội. Mặt khác, các tín hữu khác và đặc biệt các mục tử phải chào
đón họ cách yêu thương, kính trọng, và quan tâm, cho họ tham dự vào đời sống
Giáo Hội, khuyến khích họ làm việc thiện cách quảng đại, và tín thác vào lòng
từ bi của Thiên Chúa. “Giúp người ly dị, và lo lắng quan tâm bảo đảm làm sao để
họ đừng tự coi họ như bị tách biệt khỏi Giáo Hội, vì trong tư cách những người
đã chịu phép rửa, họ có thể, và đúng hơn, phải tham dự vào đời sống Giáo Hội.
Họ nên được khuyến khích lắng nghe lời Chúa, tham dự Hy Tế Thánh Lễ, kiên tâm
cầu nguyện, đóng góp vào các công việc bác ái và các cố gắng cộng đồng cho công
lý, dưỡng dục con cái trong đức tin Kitô Giáo, vun trồng tinh thần và thực hành
thống hối và như thế, ngày ngày, van nài ơn thánh Chúa. Hãy để Giáo Hội cầu
nguyện cho họ, khuyến khích họ, tự chứng tỏ mình là người mẹ từ nhân, và nhờ
thế nâng đỡ họ trong đức tin và đức cậy. […] Với niềm tín thác vững vàng, Giáo
Hội tin rằng những người bác bỏ giới răn của Chúa nhưng vẫn sống trong trạng
thái này sẽ có khả năng nhận được từ Thiên Chúa ơn hoán cải và cứu rỗi, miễn là
họ phải trì chí trong cầu nguyện, thống hối và bác ái” (Familiaris Consortio,
84).
Hai mươi
sáu năm sau, các khẳng định về tín lý và mục vụ của Familiaris Consortio
đã được Sacramentum Caritatis của Đức Bênêđíctô XVI củng cố, không thay
đổi bao nhiêu (số 29). Thay vào đó, một số tiêu chí đã được phụ thêm vào một
văn kiện khác của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tức Reconciliatio
Poenitentia, được công bố sau Familiaris Consortio không lâu, và đã
minh nhiên trích dẫn tông huấn này. Đức Giáo Hoàng nói tới các Kitô hữu rơi vào
“các tình huống đặc biệt tế nhị và hầu như không thể thoát ra được”, trong đó
có người ly dị tái hôn và những người sống trong “các tình huống bất hợp lệ”.
Trong các trường hợp này, hai nguyên tắc bổ túc phải được tuân giữ: nguyên tắc
“cảm thương và từ bi” và nguyên tắc “chân lý và nhất quán”. Dưới ánh sáng của
hai nguyên tắc này, người ta có thể tiến tới “việc hoà giải trọn vẹn vào thời
khắc chỉ có Đấng Quan Phòng mới biết”. “Chính vì dựa vào các nguyên tắc này,
Giáo Hội chỉ có thể mời gọi những con cái nào của mình đang vướng vào các tình
huống đau lòng này tiếp cận lòng thương xót của Chúa cách khác vậy, tuy nhiên
không phải qua các bí tích thống hối và Thánh Thể cho tới lúc họ đạt được các
thiên hướng đòi hỏi” (Reconciliatio et Poenitentia, 34).
Như thế,
bất cứ ai nghiêm chỉnh cố gắng sống đúng theo con đường Kitô Giáo, chẳng sớm
thì muộn, sẽ nhận được ơn hoán cải và hoà giải trọn vẹn, ngõ hầu lãnh nhận được
các bí tích, hay ít nhất ơn cứu rỗi đời đời vào lúc kết thúc cuộc sống trần
gian. Trong viễn tượng này, vững tin vào lòng thương xót và tôn trọng chân lý
đã cùng được đưa vào việc hoà giải.
Theo cùng
văn kiện trên, nẻo đường dẫn tới việc hòa giải trọn vẹn cũng bao gồm “việc năng
lặp đi lặp lại các hành vi tin, cậy, mến và thống hối càng làm hoàn hoảo bao
nhiêu càng hay” (ibid.). Chúng là các hành vi riêng tư mà chỉ có Thiên
Chúa mới biết và phán đoán. Có thể chúng không đạt được mức hoàn hảo cần thiết
để công chính hóa người có tội, nhưng ít nhất, chúng giúp chuẩn bị cho việc
này. Cũng có thể nói tương tự như thế về việc rước lễ thiêng liêng. Kiểu nói
này có ý nói tới ước muốn được rước Thánh Thể hoặc nơi người đã được công chính
hóa, nhưng không thể rước lễ bí tích vì các hoàn cảnh chẳng may xẩy ra, hay nơi
người có tội vốn bị ngăn cản không được rước lễ bí tích vì tình huống luân lý
của mình không tương hợp với Phép Thánh Thể. Nhờ ước muốn này, người trong
trường hợp đầu nhận được sự gia tăng của ơn thánh hóa; người trong trường hợp
sau nhận được sự trợ giúp để chuẩn bị cho mình được ơn hóan cải và công chính
hóa trọn vẹn. Trong cả hai trường hợp, ước muốn chịu lễ đều tốt và lý tưởng để
phát triển mối liên hệ với Chúa.
Chủ trương
mục vụ hiện hành vừa được trình bày trên đây liên quan trước nhất tới người ly
dị và tái hôn. Nhưng Familiaris Consortio cũng đưa ra các lời dạy tương
tự đối với những người sống chung mà không kết hôn (số 81) và các người Công
Giáo chỉ kết hôn theo dân luật (số 82). Dù tình huống của họ có khác nhau,
nhưng cách đối xử với họ gần như giống nhau: không cho họ được chịu các bí tích
thống hối và Thánh Thể; hoan nghinh họ tham dự đời sống Giáo Hội; gần gũi họ
một cách kính trọng, để hiểu biết họ trên căn bản cá nhân, và do đó, hướng dẫn
và đồng hành với họ hướng về trạng thái sống hợp lệ.
Tính hoàn
hảo của thực hành hiện nay
Chủ trương
hiện nay trong tín lý và kỷ luật của Giáo Hội đối với người ly dị tái hôn và
những người sống chung rất nhất quán và đặt căn bản vững chắc trên Thánh Kinh
và Thánh Truyền. Tuy nhiên, hiện đang có nhiều người không thấy thoải mái với
nó. Nhiều cặp bất hợp lệ coi việc không cho rước lễ như là bị loại hoàn toàn ra
khỏi Giáo Hội. Họ cảm thấy bị Giáo Hội hất hủi và không còn cảm nhận được sự
gần gũi đầy xót thương của Thiên Chúa. Họ bị cám dỗ rời bỏ cộng đồng Giáo Hội
và mất đức tin.
Hiển
nhiên, phương thuốc đầu tiên là phải cố gắng hơn nữa để thực thi các chỉ thị
khôn ngoan của Huấn Quyền. Ấy thế nhưng, một số người đề nghị nên thêm nhiều
cách cụ thể và chuyên biệt hơn trong việc chăm sóc các cặp bất hợp lệ, để đem
lại một tầm quan trọng lớn hơn và dễ thấy hơn đối với tư cách chi thể Giáo Hội
của họ và để nâng đỡ cuộc sống thiêng liêng của họ cách hữu hiệu hơn. Một số
trách vụ trong Giáo Hội, từ trước tới nay người ly dị tái hôn vốn bị cấm làm,
nay có thể ủy thác cho họ, ngoại trừ những trách vụ đòi phải có một đời sống
gương mẫu. Các buổi cử hành nhằm tăng tiến cuộc sống thiêng liêng của họ nên
được tạo ra, cả cho người sống chung nữa. Có thể thay thế việc không cho rước
lễ bằng việc chúc lành, như vốn làm với các Kitô hữu không Công Giáo. Đề xuất
có tính thách thức hơn cả liên quan tới việc thiết lập một nẻo đường đặc biệt
nhằm giúp họ biện phân và thể hiện ý muốn của Thiên Chúa tốt hơn ở trong đời:
một nẻo đường có tính bản thân và chung chia trong các cộng đoàn nhỏ, một nẻo
đường bao gồm suy niệm và đối thoại, cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa, Giáo
Hội, gia đình và cam kết xã hội, cũng như phục vụ bác ái; một hành trình kéo
dài nhiều thời gian, cho tới khi vượt qua được trạng huống không tương hợp với
Thánh Thể, hoặc thậm chí cho tới lúc kết thúc cuộc sống dương gian, luôn sống
tín thác vào lòng từ bi của Thiên Chúa và niềm hy vọng cuộc sống đời đời. Các
gợi ý này và các gợi ý tương tự chắc chắn có những khía cạnh tích cực của
chúng; nhưng chúng cũng có nguy cơ hạ nhục người ta và đẩy họ qua bên lề thành
một loại người khác. Dù sao, cần phải khôn ngoan, kính trọng và quan tâm tế
nhị.
Nhiều
người than phiền rằng thực hành mục vụ hiện nay của Giáo Hội khi, một cách tổng
quát, không cho các cặp bất hợp lệ rước lễ, đã không xem xét đủ điều gọi là
“luật tiệm tiến” (“law of gradualness”) từng được chính Huấn Quyền nêu rõ (Xem
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, 34). Họ tự hỏi
có thể đưa ra một số luật trừ nào đó hay không. Trước khi đề cập đến việc này,
xin đi qua phần dưới trước đã.
Các đề
nghị đổi mới
Đây là một
thay đổi mục vụ lớn được các phương tiện truyền thông hết mình cổ vũ, và được
công chúng cũng như nhiều người Công Giáo, cả giáo dân lẫn giáo sĩ, rất mong
chờ.
Phiên Đặc
Biệt gần đây của Thượng Hội Đồng Giám Mục (5-19 tháng Mười, 2014) biến nó thành
một chủ đề tranh luận sống động.
“Khi cân
nhắc một phương thức mục vụ đối với những người đã kết ước một cuộc hôn nhân
dân sự, những người đã ly dị và tái hôn hay đơn giản chỉ sống chung với nhau,
Giáo Hội có trách nhiệm giúp họ hiểu nền sư phạm của Thiên Chúa về ơn thánh
trong đời họ và giúp đỡ để họ đạt tới sự viên mãn của kế hoạch Thiên Chúa dành
cho họ. […] Các nghị phụ thượng hội đồng cũng xem xét khả thể cho phép người ly
dị và tái hôn được chịu các bí tích thống hối và Thánh Thể… Đề tài này cần được
xem xét thấu đáo, luôn nhớ tới việc phân biệt giữa một bên là tình thế tội lỗi
khách quan và các hoàn cảnh giảm khinh, xét vì “việc có thể qui tội và trách
nhiệm đối với một hành động nào đó có thể gia giảm, thậm chí còn bị triệt tiêu
bởi ngu dốt, thiếu thận trọng, bị cưỡng ép, sợ sệt, bởi thói quen, các gắn bó
vô trật tự, và nhiều nhân tố tâm lý hay xã hội” (Relatio Synodi, 25 v à
52).
Sự thay
đổi mục vụ trên được gợi hứng bởi ý muốn làm cho Giáo Hội có tính chào đón và
lôi cuốn hơn đối với nhiều người đang bị thương tổn bởi cuộc khủng hoảng hôn
nhân rất phổ biến trong xã hội hiện nay, bằng cách tỏ cho họ và nọi người thấy
lòng từ bi của Thiên Chúa một cách cụ thể, bằng cách thừa nhận các giá trị tích
cực được coi là hiện diện trong việc sống chung bất hợp lệ, và bằng cách trình
bầy Tin Mừng như một hồng ân hơn là một trói buộc.
Các đề
nghị có thế giá nhất không nghi vấn tính bất khả tiêu của hôn nhân Kitô Giáo.
Thực thế, các đề nghị này cho rằng các tín hữu ly dị tái hôn nên tuyên xưng
tính này, bằng cách thừa nhận rằng họ đã phạm tội vì đã phá bỏ sự kết hợp vợ
chồng trước đây, xin sự tha thứ, và làm việc thống hối. Cuộc kết hợp thứ hai
không được coi là cuộc hôn nhân tự nhiên, vì, đối với người đã chịu phép rửa,
chỉ có một cuộc hôn nhân thành sự, đó là cuộc hôn nhân bí tích. Cũng thế, cuộc
hôn nhân thứ hai không được coi là hợp giáo luật, vì, vì cuộc hôn nhân đầu bất
khả tiêu, nên cuộc hôn nhân thứ hai tạo ra một cuộc đa hôn. Nói tổng quát,
người ta thích nói tới một cuộc kết hợp không trọn vẹn, chỉ hầu như có tính hôn
nhân, hay một cuộc sống chung, đặt căn bản trên một số giá trị nhân bản và Kitô
Giáo (như tình âu yếm, dịu dàng, giúp đỡ lẫn nhau, chăm sóc con cái). Tuy
nhiên, một số người công khai nói tới cuộc hôn nhân tự nhiên thứ hai, không có
tính bí tích hay hôn nhân dân sự. Nói tóm lại, ngoài các thay đổi về ngôn từ,
người ta tin rằng cuộc kết hợp thứ hai tương hợp với tính bất tiêu của cuộc hôn
nhân đầu, ít ra trong một số trường hợp; thực sự, theo các đề nghị này, ta nên
đánh giá nó như một vốn qúy (asset) cần được bảo vệ, và nên tự chế trong việc
đòi hỏi những người liên hệ phải ly thân và tiết dục, là điều quá đáng, gây
nhiều khó khăn.
Trong Kỳ
Họp Đặc Biệt năm 2014, bộ phận các nghị phụ tỏ ra ủng hộ sự thay đổi này chỉ
chấp nhận “phương thức cá nhân hóa nhiều hơn, cho phép lui tới trong trong một
số tình huống và với những điều kiện định rõ” (Relatio Synodi, 52). Việc
rước lễ chỉ được ban cho các tín hữu ly dị và tái hôn trong các trường hợp
không thể nào trở lui được nữa, sau khi đã thanh thỏa mọi nghĩa vụ do cuộc hôn
nhân đầu tạo ra và hoàn tất nẻo đường thống hối do vị giám mục giám sát.
Còn đối
với các nhà chuyên môn, một số đưa ra giả thuyết cho rước lễ “phiến diện”
(partial), tức trong các dịp đặc biệt, có ý nghĩa đặc biệt đối với cuộc sống
bản thân hay cuộc sống gia đình, hay mỗi năm một lần vào dịp Phục Sinh. Rồi,
một số nói rằng nên giới hạn kỷ luật mới vào những người ly dị và tái hôn dân
sự mà thôi, loại trừ những người sống chung trên thực tế (de facto), những cặp
có đăng ký và những người đồng tính sống chung với nhau.
Bản thân
Đức HY Antonelli thì nghĩ rằng việc hạn chế như trên không thực tiễn, vì những
người sống chung đông hơn những người ly dị tái hôn rất nhiều. Cuối cùng, áp
lực xã hội và luận lý học nội tại của sự việc chắc chắn sẽ áp đặt các ý kiến
ủng hộ việc cho phép rộng rãi hơn.
Các phản
bác đối với việc cho phép những người sống chung bất hợp lệ rước lễ
Các mục tử
có thế giá và các nhà chuyên môn có giá trị đã nêu ra nhiều phản bác đáng lưu ý
chống lại các đề nghị đổi mới nhằm cách mạng hóa thực hành của Giáo Hội.
1. Người
ta nên thận trọng lưu ý tới nguy cơ phá hoại tính khả tín của huấn quyền giáo
hoàng, vì Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI, trong mấy
năm gần đây, đã nhiều lần và cương quyết loại bỏ khả thể cho các người tái hôn
và sống chung lãnh nhận các bí tích. Cùng với thế giá của Đức Giáo Hoàng, điều
này cũng làm yếu đi thế giá của toàn thể giám mục đoàn thế giới, là đoàn ngũ
vốn chia sẻ cùng một chủ trương như thế trong nhiều thế kỷ qua.
2. Việc
Giáo Họi chào đón các tín hữu ly dị tái hôn, và tổng quát hơn, những cặp bất
hợp lệ, không nhất thiết đòi phải cho họ rước lễ. Đã đành, rước lễ cần
thiết cho sự cứu rỗi; tuy nhiên, điều này không có nghĩa chỉ những ai rước lễ
mới được cứu rỗi. Giáo Hội cũng cần thiết cho việc cứu rỗi, ấy thế nhưng điều
này không hàm nghĩa chỉ những ai hữu hình thuộc về Giáo Hội mới được cứu rỗi.
Thánh Thể là biểu thức tối cao nói lên sự hiệp thông với Chúa Kitô, để thánh
hóa các cá nhân Kitô hữu và để xây dựng Giáo Hội. Đã đành mọi người chúng ta
đều mắc lầm lỗi và không xứng đáng lãnh nhận Thánh Thể; nhưng có nhiều loại
thiếu sót và bất xứng khác nhau. “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách
bất xứng, là phạm đến Mình và Máu Chúa…là ăn và uống án phạt mình” (1 Cor 11:27.29).
Giáo Hội nhất quán dạy rằng tội trọng khiến người ta không được rước lễ và muốn
rước lễ lại thì phải xưng tội (xem Công Đồng Trent, DH 1647; 1641; SGLCGHCG,
1415).
Hơn nữa,
cho phép rước lễ không phải chỉ là vấn đề thánh hóa cá nhân. Một Kitô hữu không
Công Giáo hay thậm chí một tín hữu của một tôn giáo khác không có phép rửa, về
phương diện thiêng liêng, có thể còn gần gũi Thiên Chúa hơn một người Công Giáo
giữ đạo, dù họ không được phép rước lễ, vì đâu có hiệp thông trọn vẹn một cách
hữu hình với Giáo Hội.
Thánh Thể
là đỉnh cao và nguồn suối của sự hiệp thông thiêng liêng và hữu hình. Tính hữu
hình này là điều chủ yếu, vì Giáo Hội là một bí tích cứu rỗi và là dấu hiệu
công khai của Chúa Giêsu, Cứu Chúa trong thế gian. Tuy nhiên, những người ly dị
tái hôn và những người sống chung bất hợp lệ, rơi vào tình huống khách quan và
công khai mâu thuẫn nghiêm trọng với Tin Mừng và tín lý của Giáo Hội
Trong bối
cảnh văn hóa duy tương đối ngày nay, có nguy cơ tầm thường hóa Phép Thánh Thể
và rút gọn nó thành một nghi thức xã hội hóa. Trong một số trường hợp, ngay
những người không rửa tội cũng tiến tới bàn thánh, với ý định làm một cử chỉ
lịch sự, và những người không tin vẫn đòi quyền được rước lễ tại các lễ cưới và
an táng như một dấu chỉ tình liên đới với bằng hữu.
3. Có thể
ban Thánh Thể cho các người Công Giáo ly dị và tái hôn trong khi vẫn khẳng nhận
tính bất khả tiêu của cuộc hôn nhân thứ nhất và không thừa nhận cuộc kết hợp
thứ hai là hôn nhân thực sự (để tránh song hôn). Một chủ trương như thế có khác
với lập trường của các Giáo Hội Chính Thống. Các Giáo Hội này cho phép những
người ly dị ở tòa đời được kết hôn hợp giáo luật lần thứ hai (thậm chí cả lần
thứ ba nữa), dù các cuộc hôn nhân sau có sắc thái thống hối hơn. Thực vậy, xét
theo một số phương diện, chủ trương này còn nguy hiểm hơn, vì nó dẫn
người ta tới chỗ thừa nhận việc sử dụng hợp pháp cơ năng tính dục ở bên ngoài
hôn nhân, giống các cặp sống chung với nhau, là những cặp vốn đông hơn các
người ly dị và tái hôn. Những người bi quan nhất thường nói rằng họ thấy trước
điều này: cuối cùng người ta sẽ tin rằng việc sống chung trước hôn nhân, cả có
đăng ký lẫn không đăng ký, là hợp pháp về phương diện luân lý, cả các liên hệ
tính dục qua ngày (occasional), các cuộc kết hợp đồng tính và thậm chí cả đa ái
(polyamory) và các cuộc kết hợp đa gia (multiple-family unions) nữa cũng thế.
4. Người
ta chắc chắn ước ao muốn thấy một thái độ tích cực được chấp nhận trong thừa
tác mục vụ, qua việc “nhậy cảm đối với các khía cạnh tích cực của các cuộc hôn
nhân cử hành bằng dân luật và, cả việc sống chung nữa, tuy có nhiều dị biệt
hiển nhiên” (Relatio Synodi, số 41).
Các cuộc
kết hợp bất hợp lệ chắc chắn có những giá trị nhân bản chân chính (thí dụ, tình
âu yếm, giúp đỡ lẫn nhau, dấn thân chung cho con cái), vì sự ác luôn luôn lẫn
lộn với sự thiện và không bao giờ hiện hữu trong một trạng thái nguyên chất.
Tuy nhiên, ta phải tránh việc trình bầy các cuộc kết hợp này như tự chúng là
các giá trị chưa hoàn hảo, vì thực sự có những bất trật tự nghiêm trọng. “Đừng
để mình bị đánh lừa; những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu thần, ngoại tình, đĩ điếm nam
hay thực hành đồng tính luyến ái, trộm cướp, tham lam, rượu chè, quen chủi bới,
trộm cắp sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (1Cor 6:9–10).
Luật tiệm
tiến chỉ ảnh hưởng tới trách nhiệm chủ quan của các cá nhân mà thôi, và không nên biến nó thành tính
tiệm tiến của lề luật, bằng cách trình bầy sự ác như một sự thiện chưa hoàn
hảo. Không hề có tính tiệm tiến giữa điều chân và điều giả, giữa điều thiện và
điều ác. Dù không nên phán đoán lương tâm người ta, một điều chỉ có Thiên Chúa
mới thấy, và phải đồng hành với họ một cách kính trọng và kiên nhẫn hướng tới
sự thiện bao nhiêu có thể, Giáo Hội vẫn không thể không giảng dạy sự thật khách
quan về thiện và ác, và chứng minh rằng mọi giới luật của Thiên Chúa đều là
những đòi hỏi để có được tình yêu chân chính (xem Gl 5:14; Rm
13:8-10) và nhờ được ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ, tình yêu này có thể tuân giữ
được các giới luật này và còn có thể vượt quá cả chúng nữa. Bởi thế, dù khó
khăn, đức trong sạch vẫn có thể có đối với mọi người, phù hợp với bậc sống của
họ: dù là người kết hôn, người độc thân hay người ly dị và tái hôn. Những người
sau cùng vừa kể, dù vì con cái hay vì chính họ, mà không thể chấm dứt việc sống
chung, thì ít nhất, cũng có thể nhận được ơn và sức mạnh để thực hành việc tiết
dục, và sống mối tương quan bằng hữu và giúp đỡ lẫn nhau “như anh trai em gái”,
không thực hành giao hợp tính dục, vốn chỉ dành cho hôn nhân và lên đặc điểm
cho tình yêu phu phụ (xem Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Familiaris
Consortio, 84).
5. Nhận
cho những người ly dị tái hôn và những người sống chung với nhau dự bàn tiệc
Thánh Thể là dẫn người ta tới chỗ tách biệt lòng từ bi ra khỏi việc hoán
cải, một việc không nhất quán với Tin Mừng.
Nếu thế,
đấy là trường hợp duy nhất trong đó sự tha thứ không đòi phải hóan cải. Lòng từ
bi của Thiên Chúa luôn dẫn người có tội tới chỗ hoán cải: nó không những giúp
họ thoát hình phạt, mà còn chữa lành họ khỏi mặc cảm tội lỗi; nó chẳng liên hệ
gì tới lòng khoan dung. Về phần Người, Thiên Chúa luôn ban ơn tha thứ; nhưng sự
tha thứ này chỉ được tiếp nhận bởi những ai khiêm nhường, biết thừa nhận rằng
mình có tội và đồng ý thay đổi lối sống của mình. Ngược lại, bầu khí duy tương
đối và chủ nghĩa chủ quan đạo đức tôn giáo, mà ta đang sống trong đó hiện nay,
cổ vũ việc tự công chính hóa chính mình, nhất là trong các lãnh vực xúc cảm và
tính dục. Sự thiện là điều người ta coi như một phần thưởng và phù hợp với ý
muốn tức khắc của họ. Trung thực và chính trực được gọi là chân chính, hiểu như
tự phát (spontaneity). Đàng khác, đang có khuynh hướng giảm thiểu trách nhiệm
cho người ta, bằng cách gán bất cứ thất bại nào cho việc điều kiện hóa của xã
hội. Ý kiến đang tràn lan hiện nay là: nếu các cuộc hôn nhân thất bại, thì
chính vợ chồng không có trách nhiệm hàng đầu nào mà đây là kết quả của tình
hình kinh tế và các điều kiện nhân dụng, tính di động của công việc, đòi hỏi
của nghề nghiệp; tóm lại, đây là lỗi của xã hội. Chuyện cũng dễ dàng là đổ lỗi
cho người phối ngẫu kia và tự cho mình vô tội. Tuy nhiên, ta không nên bỏ qua
sự kiện này: nếu một trong hai người phối ngẫu, đôi khi, có thể bị qui lỗi, thì
trong cuộc kết hợp mới (bất hợp pháp), cả hai người đều chịu trách nhiệm, và
điều này, trước nhất, khiến họ không được rước lễ, bao lâu cuộc kết hợp này còn
kéo dài. Khuynh hướng xem xét cuộc kết hợp thứ hai một cách tích cực và chỉ qui
tội cho việc ly thân trước đó không hề có bất cứ nền tảng thần học nào cả. Chỉ
làm việc thống hối cho nó mà thôi thì không đủ. Cần thiết phải thay đổi đời
sống.
6. Thông
thường, những người có cảm tình với việc cho phép người ly dị tái hôn và người
sống chung được rước lễ tuyên bố rằng việc này không hề nghi vấn tính bất khả
tiêu của hôn nhân. Tuy nhiên, quá bên kia ý hướng của họ, xét vì sự thiếu nhất
quán về tín lý giữa việc cho phép họ rước lễ và tính bất khả tiêu của hôn nhân,
điều này cuối cùng sẽ dẫn ta tới chỗ bác bỏ việc thực hành cụ thể một điều vốn
tiếp tục được quả quyết trong nguyên tắc lý thuyết, với nguy cơ rút gọn cuộc
hôn nhân bất khả tiêu thành một lý tưởng, rất có thể đẹp đẽ, nhưng chỉ một
thiểu số may mắn mới có thể vươn tới.
Về phương
diện này, thực hành mục vụ được các Giáo Hội Chính Thống khai triển dạy ta
nhiều điều. Các Giáo Hội này duy trì tín lý bất khả tiêu của hôn nhân. Tuy
nhiên, trong các thực hành của họ, họ dần dần nhân thừa các lý do để tiêu hủy
cuộc hôn nhân trước nhằm cho phép cuộc hôn nhân thứ hai (hay thứ ba). Hơn nữa,
con số đơn xin rất cao. Hiện nay, bất cứ ai trình được văn kiện ly dị ở tòa đời
cũng đều nhận được phép của Giáo Hội để tái hôn, không cần phải đi qua cuộc
điều tra theo giáo luật và việc lượng giá vụ việc.
Người ta
cũng dễ thấy trước việc này: việc rước lễ của người ly dị và tái hôn và những
người sống chung sẽ mau chóng được tổng quát hóa. Lúc ấy, nói tới tính bất khả
tiêu của hôn nhân sẽ là điều vô nghĩa và việc cử hành bí tích hôn phối sẽ mất
hết tính liên hệ thực tiễn của nó.
Còn 1 kỳ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét