Thượng Hội Đồng về Gia Đình, cuộc khủng hoảng hôn nhân và Phép Thánh Thể (tiếp theo)
(Thu, 02/07/2015 - Vũ Văn An – Vietcatholic.net)
Chân
lý và trách nhiệm
|
Theo Relatio
Synodi, tức bản tường trình sau cùng của THĐ năm 2014, vấn đề cho phép
người ly dị và tái hôn rước lễ phải được nghiên cứu dưới ánh sáng của việc phân
biệt giữa tình tạng khách quan của tội và trách nhiệm bản thân, là trách nhiệm
có thể được giảm khinh hay triệt tiêu bởi nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài
(xem Relatio Synodi, 52).
Huấn quyền
của Giáo Hội dạy rằng có sự phân biệt giữa chân lý khách quan của sự thiện luân
lý và trách nhiệm chủ quan của các cá nhân, giữa lề luật và lương tâm, giữa bất
trật tự và tội lỗi. Huấn quyền này thừa nhận rằng có luật tiệm tiến trong trách
nhiệm bản thân, trong khi không hề có sự tiệm tiến về luật trong chân lý của
thiện và ác.
“Nhưng con người, vốn được mời gọi sống theo kế sách khôn
ngoan và đầy yêu thương của Thiên Chúa một cách có trách nhiệm, là một hữu thể
lịch sử, ngày qua ngày, tự bồi đắp mình bằng rất nhiều quyết định tự do; và do
đó, họ biết, họ yêu và họ thực hiện sự thiện luân lý qua các giai đoạn trưởng
thành” (Thánh GH Gioan Phaolô II, Familiaris
Consortio, 34).
Khả năng
chủ quan biết, đánh giá và muốn sự thiện là của riêng mỗi người và được điều
kiện hóa bởi nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài. “Việc quy lỗi và trách nhiệm về một hành động có thể được giảm bớt hay
xóa bỏ do thiếu hiểu biết, sơ suất, do áp lực, sợ hãi, do thói quen, do tâm lý
bất ổn, do các nhân tố tâm lý hay xã hội” (SGLCGHCG, số 1735).
Trách
nhiệm thường phát triển từ từ. Tuy nhiên, người ta không thể “coi lề
luật chỉ như một lý tưởng để đạt tới trong tương lai”; họ không thể nói tới
tính tiệm tiến của lề luật “như thể có
những mức độ hay hình thức giới điều khác nhau trong lề luật của Thiên Chúa
dành cho các cá nhân và các tình
huống khác nhau” (Thánh GH Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio,
34). Luật luân lý buộc tất cả mọi người và không bao giờ bị coi như “một lý tưởng cần được thích ứng” với
các khả thể cụ thể của con người (idem; Veritatis Splendor, 103).
Nghĩa vụ làm điều thiện không có phân mức (gradation), nhưng khả năng làm nó
thì phát triển từ từ.
Để chỉ rõ
sự phân biệt giữa chân lý khách quan của đời sống Kitô hữu theo Tin Mừng và
trách nhiệm chủ quan của các cá nhân, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tạo
ra một hình ảnh sống động được ngài dùng nhiều lần sau bài diễn văn tại
Kinshasa, vào ngày 3 tháng Năm, 1980. Như thường lệ, Đức Giáo Hoàng khuyên các
mục tử đừng hạ thấp ngọn núi, nhưng hãy giúp các tín hữu leo núi ấy bằng cách
dẫn đường. Về phần họ, các tín hữu đừng có ngưng việc cố gắng đạt tới đỉnh núi;
họ phải thành thực tìm kiếm cả điều thiện lẫn ý Thiên Chúa. Chỉ với thái độ nền
tảng này, ta mới có thể khai triển được một nẻo đường tích cực để hoán cải và
lớn lên, dù bước chân cá thể có thể ngắn và đôi khi đi lạc. “Điều cần là một cuộc hóan cải liên tục,
vĩnh viễn, một cuộc hóan cải, trong khi đòi nội tâm ta phải xa lánh mọi điều ác
và gắn bó với điều thiện trong tính viên mãn của nó, được tạo ra một cách cụ
thể trong các bước chân dẫn ta tiến tới phía trước” (Familiaris Consortio, 9).
Đức GH
Phanxicô dùng một âm sắc khác, nhiệt tình hơn, nhưng xét trong yếu tính, ngài
cũng tiến theo cùng một đường hướng. “Trong
khi vẫn không xa rời lý tưởng Tin Mừng, họ cần phải có lòng thương xót và kiên
nhẫn để dõi theo và nâng đỡ các giai đoạn tăng trưởng khi chúng tuần tự diễn
ra. Tôi muốn nhắc nhớ các linh mục rằng toà giải tội không phải là một buồng
tra tấn nhưng là một nơi gặp gỡ lòng từ bi của Chúa, thúc đẩy chúng ta làm hết
sức mình. Một bước đi nhỏ giữa những hạn chế to lớn của con người, có thể làm
vui lòng Thiên Chúa hơn là một cuộc sống bề ngoài xem ra đúng mực nhưng ngày
ngày không phải đối diện với những khó khăn to lớn nào. Mọi người cần được đánh
động bởi sự an ủi và hấp dẫn của tình thương cứu độ của Thiên Chúa, đang hoạt
động một cách nhiệm mầu trong mỗi người, vượt lên trên các sa ngã và lỗi lầm
của họ” (Đức GH Phanxicô, Evangelii Gaudium,
44).
Trong viễn
ảnh của luật tiệm tiến, ta có thể hiểu một lương tâm tốt lành và ngay thẳng có
thể hiện hữu ra sao ngay trong một tình huống tội lỗi khách quan, ngay trong
tác phong thiếu sót và vô trật tự. Một số người đơn giản làm ngơ điều này: một
số tác phong là sai lạc; nhiều người khác biết rằng về lý thuyết, chúng xấu xa,
nhưng bản thân lại không tin như thế; lại có nhiều người, dù nhìn nhận chúng là
sự ác, nhưng lại không cương quyết xa lánh chúng. Chỉ có Thiên Chúa mới thấy
được tâm hồn người ta và trực tiếp phán kết trách nhiệm luân lý của họ. Giáo
Hội chỉ có thể làm việc biện phân, vì thái độ bên trong tự nó biểu lộ qua lời
nói, hành động, thói quen và lối sống, dù chỉ phần nào. Trách vụ đầu tiên của
Giáo Hội là dạy chân lý khách quan, vốn có giá trị đối với mọi người, và song
song, ra qui luật cho đời sống bản thân và cộng đoàn của Kitô hữu. Còn về phần
các tín hữu, mỗi cá nhân có bổn phận phải đồng hành với họ một cách kiên nhẫn
hướng tới sự thiện mà họ vốn có khả năng, soi sáng các tình huống của họ ở
trong đời, khuyến khích họ trì chí trong diễn trình hoán cải và trưởng thành,
trong khi tôn trọng tự do lương tâm của họ và trao phó sự yếu đuối của con
người cho lòng từ bi vô lượng của Thiên Chúa.
Các vụ kết
hợp bất hợp pháp của các cặp ly dị và tái hôn và những người sống chung là việc
công khai và tỏ tường. Giáo Hội không nhìn nhận chúng, coi chúng như những tình
huống tôi lỗi khách quan. Nếu Giáo Hội nhìn nhận chúng, như thể chúng có thể
tốt ở một lúc nào đó, là Giáo Hội đi trệch ra ngoài luật tiệm tiến mà bước vào
tính tiệm tiến của lề luật, vốn bị Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kết án.
Điều xấu không thể có lúc nào đó lại có thể tốt được. Ăn cắp không bao giờ trở
thành hợp pháp cả, dù đối với những người đã quá quen thuộc với việc ăn cắp;
văng tục chửi thề hiếm khi có thể trở thành hợp pháp, ngay đối với những người
quá quen với việc văng tục chửi thề thường xuyên. Cũng thế, các cuộc kết hợp
hôn nhân bất hợp pháp không thể được biến thành tốt về phương diện luân lý bởi
các điều kiện của những người ủng hộ việc cho phép người ly dị và tái hôn được
rước lễ (như tình thế không thể nào đảo ngược được, chu toàn các nghĩa vụ cũ,
hôn nhân dân sự, hoàn tất hành trình thống hối để đền trả sự bất trung trong
cuộc hôn nhân thứ nhất, các giá trị nhân bản chân chính cảm ngiệm được trong
cuộc kết hợp thứ hai).
Vì các
cuộc kết hợp bất hợp lệ có tính công khai và tỏ tường, nên Giáo Hội cũng không
thể im lặng hay khoan dung được. Giáo Hội bắt buộc phải công khai can thiệp để
bác bỏ các tình huống tội lỗi khách quan ấy.
Ấy thế
nhưng, về phương diện chủ quan, các người kết hợp có thể không chịu trách nhiệm
hoàn toàn, vì chịu điều kiện hóa của cuộc sống, của văn hóa, của tâm lý và xã
hội. Thậm chí rất có thể họ còn có ơn Chúa và có những thiên hướng cần thiết để
lãnh nhận Thánh Thể. Tuy thế, ta không thể chỉ đơn giản giả thiết tất cả những
điều ấy; cần phải biện phân chúng một cách thận trọng, theo luật tiệm tiến. Ta
phải biện phân xem liệu những người sống chung có nhất định leo lên đỉnh núi,
tức việc tiết dục, hay không. Chỉ khi nào có việc thành thực hóan cải này, thì
bất cứ bước lầm lỡ hay tái phạm nào trong các liên hệ tính dục mới được giảm
khinh. Sự giúp đỡ cần thiết cho việc leo núi khó khăn này tùy thuộc ở việc đồng
hành có tính bản thân và việc tham dự vào đời sống Giáo Hội, như đã được chỉ ra
trong Familiaris Consortio và Sacramentum Caritatis, là hai
văn kiện sẽ được bổ túc nay mai nhờ các kết luận của Thượng Hội Đồng và giáo
huấn của Đức GH Phanxicô.
Luật tiệm
tiến rất có giá trị đối việc đồng hành có tính bản thân với các cá nhân. Các
tiêu chung để cho phép những người sống trong các tình huống bất hợp lệ rưóc lễ
không thể được rút ra từ luật này, ngoại trừ bởi những người lẫn lộn luật này
với tính tiệm tiến của lề luật vốn không thể chấp nhận được. Thực vậy, biện
phân trách nhiệm chủ quan là một việc và nhận diện sự thiện khách quan có thể
có nơi các cá nhân lại là một việc hoàn toàn khác. Việc đem người ta tới chỗ
dần dần khắc phục được tình huống bất hợp lệ của họ, bằng cách nghiêm chỉnh
hướng tới việc hoàn toàn tiết dục, khác với việc bảo họ cứ tiếp tục ở lại trong
cuộc kết hợp bất hợp pháp, trong khi chỉ cho họ thấy cuộc kết hợp này còn có
thể trở thành một sự thiện khả hữu đối với họ, trong một số điều kiện. Luật
tiệm tiến dùng để biện phân các lương tâm, chứ không phải để xếp loại các hành
động được coi như tốt nhiều hay ít, và càng không phải để nâng sự ác lên phẩm
hàm sự thiện chưa hoàn toàn.
Đối với
người ly dị và tái hôn và những ai sống chung, thay vì cổ vũ các đề nghị đổi
mới trên đây, nhiên hậu ta phải củng cố thực hành mục vụ truyền thống. Trách
nhiệm chủ quan đối với bất cứ hành vi vô trật tự nào chỉ ít nhiều được giảm
khinh nơi những người nghiêm chỉnh cố gắng tiết dục hoàn toàn và sống “như anh trai em gái”, dù đôi lúc, nếu
không ngưng việc sống chung và rơi vào chỗ quá cận kề với dịp tội, họ có thể
không giữ được cam kết một cách liên tục.
Thái độ
thông thường, cần thiết cho việc giảm khinh trách nhiệm bản thân, trong bản
chất, cũng y hệt như thái độ, mà theo Thánh GH Gioan Phaolô II, có thể cho phép
lãnh nhận bí tích hòa giải và rước lễ. “Ơn
hòa giải trong bí tích thống hối, mở đường vào Phép Thánh Thể, chỉ có thể được
ban cho những ai, sau khi thống hối vì đã phá bỏ dấu chỉ Giao Ước và lòng trung
thành của Chúa Kitô, thành thực sẵn sàng bước vào lối sống không còn mâu thuẫn
với tính bất khả tiêu của hôn nhân nữa. Trong thực hành, điều vừa nói có nghĩa:
vì các lý do nghiêm túc, như dưỡng dục con cái, người đàn ông và người đàn bà
không thể thỏa mãn nghĩa vụ ly thân, thì họ phải tự đảm nhận nhiệm vụ sống hoàn
toàn tiết dục, nghĩa là, tránh các hành vi dành riêng cho Các cặp hôn nhân” (Familiaris Consortio, 84).
Tính
bất khả tiêu của cuộc hôn nhân bí tích
Tính bất
khả tiêu là hòn đá góc của toàn bộ vấn đề mục vụ cho phép những cặp bất hợp lệ
rước lễ. Để nhất quán với tính bất khả tiêu này, thực hành truyền thống không
cho phép họ rước lễ. Trái lại, vì nghĩ tới một sự tương hợp khả hữu nào đó, nên
phần lớn các đề nghị đổi mới có thế giá sẵn sàng cho phép một cách hạn chế,
trong một số trường hợp và với một số điều kiện. Không may, có những nhà thần
học, vì một số quan điểm và phương pháp giải thích khác nhau, đã đi tới chỗ
nghi vấn tính bất khả tiêu này. Đức HY Antonelli không có ý định nghiên cứu chi
tiết vấn đề này ở đây. Ngài chỉ muốn nhắc lại một số chỉ dẫn.
Trong Giáo
Hội Công Giáo, thực hành mục vụ phải nhất quán với tín lý đức tin vốn có nền
tảng vĩnh viễn trong Thánh Kinh và giáo huấn của Đức Giáo Hoàng và của các giám
mục hiệp thông với ngài như tiêu chuẩn giải thích chính. Chân lý có thể từ từ
xuất hiện trong ý thức của Giáo Hội, được Chúa Thánh Thần soi sáng, đến mức đôi
khi được truyền dạy một cách không thể sai lầm. Việc khai triển tín lý chân
chính diễn tiến bằng cách chú ý tới các viễn tượng và việc phát triển các tổng
hợp mới, nhưng phải cùng đường hướng với các lập trường nhất định đã được đưa
ra trước đây. Không bất động mà cũng không phân ly, nhưng trung thành một cách
sáng tạo.
Giáo huấn
của Chúa Giêsu về tính bất khả tiêu của hôn nhân và sự bình đẳng giữa đàn ông
và đàn bà có tính cách mạng và khiến người Do Thái thời Người ngỡ ngàng (xem Mt
5:31-32; 19:3-10; Mc 10:2-12; 1Cor 7:2-5, 10-11, 39). Theo Luật Môsê, người
chồng được phép ly dị vợ mình, bằng cách trao cho nàng tờ giải thoát, giúp nàng
tự do tái hôn. Chúa Giêsu dứt khoát bác bỏ ly dị, nhắc lại kế hoạch ban đầu của
Thiên Chúa Hóa Công, trước cả Luật Môsê. Người coi hôn nhân như hồng phúc không
thể đảo ngược của Thiên Chúa, một hồng phúc tạo ra một sợi dây không thể nào bẻ
gẫy được và do đó có lệnh truyền tuyệt đối: “Sự
gì Thiên Chúa đã kết hợp, không con người nhân bản nào được phân rẽ” (Mt
19:6; Mk 10:9).
Sự hợp
nhất này là một hồng phúc và là một bổn phận; nó là một ơn thánh và là một cam
kết, và do đó, là điều có thể làm được. Bất cứ cuộc kết hợp nào sau khi ly thân
đều bị kết án là ngoại tình, vì sợi dây của cuộc hôn nhân thứ nhất vẫn còn giá
trị: “bất cứ ai ly dị vợ và cưới người
khác là phạm tội ngoại tình chống lại nàng; và nếu nàng ly dị chồng và cưới
người khác, nàng cũng phạm tội ngoại tình” (Mc 10:11–12). Ngay trong trường
hợp ly thân, người ta cũng phải tránh một cuộc kết hợp mới là cuộc kết hợp sẽ
bất hợp pháp: “tuy nhiên, đối với những
người đã kết hôn, tôi cho chỉ thị này (tôi, chứ không phải Chúa): vợ không được
tách ly khỏi chồng, và nếu tách ly, nàng phải hoặc ở độc thân hoặc phải làm hòa
với chồng, và chồng không được ly dị vợ” (1 Cor 7:10–11).
Khi Chúa
Giêsu cho rằng ngoại tình đã được Luật Môsê cho phép, điều này chắc gây phẫn nộ
nơi những người Do Thái sùng đạo. Ấy thế nhưng, lập trường của Chúa Giêsu về ly
dị, nói chung, đi ngược lại thực hành của các dân tộc cổ thời… Thành thử điều
dễ hiểu là giáo huấn Tin Mừng đã từng và hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn đáng
kể.
Tin mừng
Thánh Mátthêu dường như là tin mừng đầu tiên làm giảm nhẹ lệnh cấm ly dị nghiêm
ngặt, bằng cách chêm vào lời lẽ của Chúa Giêsu câu này “trừ trường hợp dâm bôn (porneia)”
(Mt 5:32; 19:9). Tuy nhên, câu này có thể giải thích nhiều cách, và người Công
Giáo phải tránh các lối giải thích không tương hợp với tín lý Giáo Hội. Vì hạn
từ porneia xem ra muốn chỉ một tình huống kéo dài hơn là hành vi ngoại
tình (thường diễn tả bằng hạn từ moicheia) có tính giai đoạn, nên có thể
giả định rằng luật trừ này có ý chỉ những cuộc kết hợp bất hợp lệ nghĩa là
những cuộc hôn nhân bị Luật Môsê ngăn cấm và, do đó, bất thành sự (xem Lv
18:6-18; Cv 15:29).
Về phía
các Giáo Phụ, ta nên nhớ rằng chỉ những gì các ngài cùng nhất trí mới có tính
qui định đối với người Công Giáo. Trong trường hợp ly dị, các ngài thừa nhận là
hợp pháp việc vợ chồng ly thân với nhau, trong một số trường hợp, thậm chí, đôi
khi còn bó buộc nữa (1); nhưng các ngài không bao giờ coi các cuộc kết hợp mới
là hợp pháp cả và khi nói về những cuộc kết hợp này, các ngài đều kết án, coi
chúng như ngoại tình. Về phương diện này, ngoài một số ít bản giải thích không
chắc chắn ra, chỉ có một ngoại lệ chắc chắn đó là một vị mang danh
Ambrosiaster. Vị này cho phép người ly thân được tái hôn.
Còn về
Khoản Luật 8 của Công Đồng Chung Nixêa, là khoản luật buộc Phái Novatianô (cấm
tha tội trọng) phải “tiếp tục hiệp thông
với những người kết hôn hai lần, và với những người chối đạo thời bách hại” (DH
127), ta nên xét xem liệu khoản luật này có ý nói tới những người góa vợ hay
những người ly dị tái hôn.
Thực vậy,
Phái Novatianô từng áp đặt lên người giáo dân một lệnh cấm chỉ áp dụng cho giáo
sĩ (xem 1Tm 3: 2, 12; Tt 1:6), nghĩa là không được tái hôn khi góa vọ, và như
thế, tự đặt họ vào thế trực tiếp kình chống Thánh Kinh, vì Thánh Kinh rõ ràng
cho phép người giáo dân góa vợ được tái hôn (xem 1Cor 7:8-9, 28-40; Rm 7:2-3).
Bơi thế, họ là lạc giáo về tín lý, chứ không chỉ quá cứng rắn trong thực hành
mục vụ. Điều này khá rõ ràng, theo nhiều chứng từ khác nhau, trong đó có Thánh
Augustinô: “Tình trạng góa vợ của anh em
không phải là một kết án đối với cuộc hôn nhân thứ hai, cũng không phải đối với
người kết ước hôn nhân. Học thuyết (tiêu cực) này được duy trì đặc biệt bởi các
lạc giáo Montanô (khắc khổ và cấm tái hôn) và Novatianô […] Anh em đừng để anh
em bị hướng dẫn ra ngoài học thuyết vững vàng bằng bất cứ luận điểm nào, dù là bác
học hay không. Anh em đừng quá phóng đại công phúc của tình trạng goá vợ của
anh em đến độ kết án người khác (làm) điều ác mà thực ra không phải là điều
ác” (Về Sự Thiện của Tình Trạng
Góa Vợ 4,6), tức việc tái hôn của những người góa vợ.
Nếu các
tài liệu rời rạc mà chúng ta có được từ thiên niên kỷ thứ nhất không giúp ta
giải thích được một số văn kiện, tình huống và giai đoạn, thì ngược lại, qua
thiên niên kỷ thứ hai, tính bất khả tiêu được minh xác dứt khoát và được định
nghĩa một cách rõ ràng trong lương tâm Giáo Hội, bằng các từ ngữ sau đây: hôn
nhân bí tích, thành sự và hoàn hợp, biểu thức trọn vẹn của mối liên hệ giữa
Chúa Kitô và Giáo Hội, không thể tiêu hủy, hoặc bằng ý muốn của các người phối
ngẫu hoặc bằng sự can thiệp của Giáo Hội hay bằng bất cứ thẩm quyền nhân bản
nào, mà chỉ bằng một mình sự chết mà thôi. Các thời điểm chính trong việc khai
triển nhất quán về tín lý là Công Đồng Florence (DH 1327), Công Đồng Trent (DH
1805; 1807), Thông Điệp Casti Connubii của Đức Piô XI (DH 3712), Công Đồng
Vatican II (Gaudium et Spes, 48 và 49), và Tông Huấn Familiaris
Consortio (các số 13, 19, và 20) của Thánh GH Gioan Phaolô II.
Công Đồng
Trent trực tiếp định nghĩa rằng dây hôn phối không thể bị tiêu hủy vì các lý
do: lạc giáo, khó sống với nhau hay cố tình vắng mặt của 1 người phối ngẫu
(Khoản Luật 5). Công đồng này cũng định rằng Giáo Hội sẽ không sai lầm khi dạy
rằng ngay việc ly dị cũng không thể nại ra để tiêu hủy một cuộc hôn nhân và kết
ước một cuộc kết hợp hợp pháp, không có tính ngoại tình mới (Khoản luật 7).
Với công
thức trên, Công Đồng muốn chấp thuận một cách gián tiếp, và phù hợp với Tin
Mừng, tín lý và thực hành của Giáo Hội Công Giáo, để tránh cả việc kết án lẫn
chấp thuận thực hành của các Giáo Hội Đông Phương. Các giáo hội này, trong khi
thừa nhận tính bất khả tiêu nội tại của hôn nhân, nhưng lại cho rằng nó có thể
bị giám mục tiêu hủy, để cho phép cuộc hôn nhân thứ hai, hoặc thậm chí cả cuộc
hôn nhân thứ ba nữa. Tuy nhiên, sau đó, các đức giáo hoàng đã lên tiếng nhiều
lần để chỉnh sửa thực hành của Đông Phương (Đức Clêmentê VIII, Đức Urbanô VIII,
Đức Bênêđíctô XIV, Đức Piô VII, Đức Grêgôriô XVI, và Chân Phúc Piô IX), cho tới
lúc Đức Piô XI cương quyết tuyên bố rằng năng quyền tiêu hủy dây hôn phối “không bao giờ, vì bất cứ lý do nào, ảnh
hưởng tới cuộc hôn nhân Kitô Giáo đã thành sự và hoàn hợp, vì hiển nhiên là ở
đây, cuộc hôn nhân đã có được sự hoàn toàn trọn vẹn của nó, do đó, bởi ý muốn
của Thiên Chúa, cũng có sự vững chắc và bất khả tiêu không thể bị tiêu hủy bời
bất cứ thẩm quyền con người nào […] Vì, như Thánh Tông Đồ nói trong thư của
ngài gửi người Êphêsô, hôn nhân của các Kitô hữu nhắc nhớ cuộc kết hợp hoàn hảo
nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội […], một cuộc kết hợp mà bao lâu Chúa Kitô còn
sống và Giáo Hội còn sống qua Người, sẽ không bao giờ có thể tiêu hủy bởi bất
cứ sự phân ly nào” (DH 3712).
Trong diễn
văn của ngài ngày 21 tháng Giêng năm 2000 với Tòa Án Tối Cao Rôma, Đức Thánh GH
Gioan Phaolô II đã rất đúng khi kết luận rằng cuộc hôn nhân thành sự và hoàn
hợp không thể bị tiêu hủy ngay cả với sự can thiệp của đức giáo hoàng.
“Cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều không thừa nhận bất cứ
năng quyền nào của Giám Mục Rôma trong việc tiêu hủy một cuộc hôn nhân đã thành
sự và hoàn hợp; trái lại, thực hành không ngừng của Giáo Hội cho thấy Thánh
Truyền biết rõ một thẩm quyền như thế không hề hiện hữu. Các phát biểu mạnh mẽ
của các vị giám mục Rôma chỉ là tiếng vang trung thành và giải thích chân chính
các xác tín vĩnh viễn của Giáo Hội mà thôi. Bởi thế, điều xem ra khá rõ ràng
là: việc không nới rộng quyền của Giám Mục Rôma đối với các cuộc hôn nhân bí
tích đã thành sự và hoàn hợp đã được huấn quyền của Giáo Hội truyền dạy như một
tín lý phải tuân thủ dứt khoát, ngay cả khi nó không được tuyên bố cách long
trọng bằng một hành vi định nghĩa. Thực vậy, tín lý này đã được các vị giám mục
Rôma minh nhiên đề xuất bằng những hạn từ tuyệt đối, một cách không thay đổi và
trong một thời kỳ đủ dài. Nó đã biến thành của riêng các ngài và được mọi giám
mục hiệp thông với Tòa Phêrô giảng dạy, vì ý thức rằng nó phải luôn được các
tín hữu tuân thủ và chấp nhận. Trong chiều hướng này, nó đã được tái khẳng định
trong Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công
Giáo. Vả lại, đây là một tín lý đã được thực hành lâu đời của Giáo Hội,
được duy trì một cách trung thành và anh dũng trọn vẹn, dù đôi khi phải chịu
các áp lực nặng nề từ những kẻ quyền thế của thế gian”.
Lời tuyên
bố quả là rõ ràng: tính bất khả tiêu tuyệt đối của cuộc hôn nhân bí tích đã
thành sự và hoàn hợp; dù nó không được tuyên bố bằng một định nghĩa tín lý
chính thức, song nó đã đã được huấn quyền thông thường giảng dậy, một huấn
quyền vốn không thể sai lầm, và thuộc về đức tin của Giáo Hội Công Giáo và, do
đó, không thể nghi vấn được.
Tình
yêu, tính bất khả tiêu, tính thành sự
Tính bất
khả tiêu vẫn giữ được ý nghĩa và sự khẩn thiết của nó dù là đối với quan điểm
nhân vị về hôn nhân, như quan điểm của Công Đồng Vatican II. “Ðấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những định
luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Ðời
sống chung này được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận cá
nhân không thể rút lại. […] Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội,
nên sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc các quyết định của con
người. Chính Thiên Chúa là Ðấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục
tiêu khác nhau […] Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và tình yêu lứa
đôi qui hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn
nhân […]. Như một hiến thân cho nhau của hai con người, sự liên kết mật thiết
này cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và
đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly” (Gaudium et Spes, 48).
Chắc chắn,
trong viễn kiến của Công Đồng, hôn nhân không thể bị thu gọn vào khế ước có
tính luật pháp; cũng thế, nó không thể bị thu gọn vào sự hài hòa xúc cảm nhất
thời, không đòi hỏi bất cứ dây liên hệ nào. Nó đã được định nghĩa rõ ràng là
một hình thức sống chung được lên khuôn bởi tình yêu phu phụ, là tình yêu, do
chính bản tính của nó, được sắp đặt cho việc sinh sản và giáo dục con cái, và
do đó, bao gồm sự thân mật tính dục, sự tự hiến lẫn cho nhau một cách trung
thành và bất khả tiêu.
Việc sẵn
sàng chào đón con cái và việc thân mật tính dục lên đặc điểm cho tình yêu phu
phụ một cách tương phản với các hình thức khác của tình yêu. Nó bao gồm tình
bạn, sự hợp tác và sống chung với nhiều chiều kích khác nhau nhưng điều hướng
và tổ chức mọi sự trong tương quan với việc sinh sản và giáo dục con cái. Không
có sự tự hiến chung cho con cái, mối liên hệ hỗ tương giữa hai người phối ngẫu
dễ trở thành việc đi tìm và trùng hợp quyền lợi mỏng dòn và sự thỏa mãn vị kỷ.
Tuy nhiên, dây hôn phối bất khả tiêu có tính nền tảng, điều mà không cuộc ly dị
nào có thể tiêu hủy được, đã được con cái nhân vị hóa. Nghĩa vụ luân lý và tính
bất khả tiêu pháp lý xuất hiện sau đó. Vì được kêu gọi kết hợp mãi mãi như cha
và mẹ trong ngôi vị người con, các người phối ngẫu được kêu gọi kết hợp
nên một trước nhất như là chồng và vợ. Trong viễn tượng này, ta hiểu tại sao
giao ước hôn nhân, do sự ưng thuận thiết lập, cuối cùng đã nên trọn nhờ mối
liên hệ tính dục. “Tình yêu này được biểu
lộ và hoàn hảo cách đặc biệt qua những động tác riêng của hôn nhân” (Gaudium
et Spes, 49).
Sự hiệp
thông vợ chồng “dẫn các người phối ngẫu
tới việc tự hiến tự do và hỗ tương, một hồng ơn tự biểu lộ qua tình âu yếm dịu
dàng và qua việc làm, một tình yêu như thế thấm nhiễm cả cuộc đời họ” (Gaudium et Spes 49); nó bao gồm
các con người và các hoạt động của họ, thân xác và linh hồn họ, trí hiểu, ý
chí, và các xúc cảm; trước nhất, nó là hồng ơn của Thiên Chúa, sau là cam kết
của con người, là hồng ân bất khả thu hồi của Thiên Chúa, cần được chào đón
bằng một dự án sống chung suốt đời. Trong hôn nhân, các tín hữu, những người,
nhờ Phép Rửa, được tháp nhập vào Chúa Kitô như những cá nhân, được đặt trong
Người như một cặp và được kêu gọi trở thành một biểu tượng cụ thể, một đại biểu
và một tham dự vào giao ước phu phụ của Chúa Kitô với Giáo Hội. Giống ấn tín
phép rửa và bất cứ hồng ơn nào khác, dây hôn phối có thể bị từ khước nhưng
không thể bị tiêu hủy. Nó là một hồng ơn đặt để một bổn phận nhưng cũng ban cho
ta khả năng thi hành bổn phận này. Điều này tự nhiên nhắc ta nhớ tới giáo huấn
của Thánh GH Gioan Phaolô II về tính thực tiễn của các luật lệ do Thiên Chúa
ban hành: “vì cùng với các giới răn, Chúa
cũng ban cho ta khả thể tuân giữ chúng” (Veritatis
Splendor, 102); “các tín hữu
luôn tìm được ơn thánh và sức mạnh để tuân giữ luật thánh của Thiên Chúa, ngay
giữa các khó khăn trầm trọng nhất” (Veritatis
Splendor, 103). Trong viễn ảnh này, tính bất khả tiêu của hôn nhân như một
ơn gọi rõ ràng có thể chu toàn được ở trên đời trong bản chất của nó; hồng ân
bất khả thu hồi của Thiên Chúa trở thành sợi dây bất khả tiêu, một sợi dây có
thể và phải được tôn trọng.
Viễn kiến
coi gia đình như một hiệp thông tình yêu phu phụ, do Thiên Chúa ban và được vợ
chồng sống bằng một kế hoạch sống tương ứng với nhau, có những hậu quả đối với
tính thành sự hay không thành sự của việc họ cử hành hôn lễ. Để thành sự, điều
cần thiết xem ra là thế này: không được rút gọn eros (tình dục) thành
chỉ còn là việc thỏa mãn cá nhân, nhưng được hoàn tất bằng việc hiến thân cho
nhau. Chỉ với tình yêu hỗ tương dâng hiến này, sự hiệp thông liên ngã thực sự
mới được thể hiện mà thôi; không như sự trùng hợp mỏng manh của tư lợi. “Như Thầy đã yêu thương các con, các con
cũng phải yêu thương nhau” (Ga 13:34). Để cử hành bí tích thành sự, một bí
tích vốn là việc đại diện và tham dự vào tình yêu phu phụ của Chúa Kitô với
Giáo Hội, xem ra tình yêu dâng hiến là điều cần thiết, ít nhất cũng phải coi nó
như một dự án sống về phía các người phối ngẫu, cũng như sẵn sàng chào đón cả
việc sinh sản lẫn giáo dục con cái.
Muốn cho
cuộc hôn nhân thành sự, ít nhất phải có một đức tin tiềm ẩn (xem Thánh GH Gioan
Phaolô II, Familiaris Consortio, 68). Hiện nay, Phiên Họp Đặc Biệt Lần
Thứ Ba của Thượng Hội Đồng bắt đầu suy nghĩ về điểm này (xem Relatio Synodi,
48). Tuy nhiên, Đức HY Antonelli tin rằng trong bối cảnh văn hóa cá nhân chủ
nghĩa, lấy mình làm trung tâm, ngày nay, ta cũng phải lưu ý tới ý hướng và khả
năng yêu thương và hiến mình nữa khi xem xét khả thể tuyên bố vô hiệu, và ngay
cả trước việc này, điều cần thiết là phải cổ vũ một nền giáo dục hết sức nghiêm
chỉnh cho người trẻ về sự thật của tình yêu và chuẩn bị hôn nhân thích đáng cho
các cặp đính hôn.
Cho
một Giáo Hội truyền giáo
Tại nhiều
quốc gia, việc thế tục hóa đang làm nhiều người ồ ạt rời bỏ Giáo Hội. Ta phải ý
thức được tầm sâu rộng của cuộc biến đổi lớn lao này để can đảm đương đầu với
thách đố khó khăn và ngy hiểm này, trong khi vẫn tin tưởng nhìn về phía trước,
không bị dính cứng vào việc tiếc nuối dĩ vãng. Ít năm trước đây, Đức HY Joseph
Ratzinger từng viết rằng: “Giáo Hội quần
chúng có thể là một điều đáng yêu, nhưng không nhất thiết phải là cách thế hiện
hữu duy nhất của Giáo Hội. Giáo Hội của ba thế kỷ đầu rất nhỏ và nhờ sự kiện
này không phải là một cộng đồng phân mảnh. Trái lại, nó không khép kín trong
chính nó, nhưng cảm thấy một trách nhiệm lớn lao đối với người nghèo, người
bệnh, đối với mọi người […]”(Joseph Ratzinger, Trước Nhất Ta Phải Là Các Nhà Truyền Giáo).
Chúa
Giêsu, Đấng Cứu Rỗi duy nhất của mọi người, kêu gọi Giáo Hội cộng tác với Người
để cứu rỗi các Kitô hữu đang hiệp thông thiêng liêng và hữu hình một cách trọn
vẹn, các Kitô hữu chỉ hiệp thông một phần, và tín hữu của các tôn giáo không
phải Kitô Giáo, cũng như những người không tín ngưỡng vốn có xu hướng tiềm ẩn
đối với Thiên Chúa. Để thi hành sứ mệnh cứu rỗi một cách hữu hiệu, cho dù con
số các tín hữu có tầm quan trọng của nó, nhưng tính chân chính của hiệp thông
giáo hội trong sự thật và yêu thương chắc chắn quan trọng và cần thiết hơn.
Như Công
Đồng Vatican II từng dạy: “Vì thế, dân
tộc thiên sai ấy, tuy hiện nay chưa bao gồm toàn thể nhân loại và đôi khi tỏ ra
như một đàn chiên nhỏ, nhưng lại là một mầm mống vững chắc nhất của hiệp nhất,
hy vọng và cứu rỗi cho toàn thể nhân loại. Dân tộc thiên sai ấy được Chúa Kitô
thiết lập để thông dự vào sự sống, bác ái và chân lý, được Người sử dụng như
khí cụ cứu rỗi cho mọi người, và được sai đi khắp thế giới như ánh sáng trần
gian và muối đất (x. Mt 5,13-16)” (Lumen
Gentium, 9). Sứ mệnh của Giáo Hội luôn có tính phổ quát, bất kể mạnh
yếu ra sao về con số. Giáo Hội cộng tác với Chúa Kitô Cứu Thế trong tư cách một
dấu chỉ nhằm tiếp nhận, thông truyền và tỏ bầy sự hiện diện, tình yêu và hành
động cứu rỗi của Người trong thế gian, như “bí
tích phổ quát của cứu rỗi” (Lumen
Gentium, 48).
Sẽ là một
hướng dẫn lầm lẫn khi tìm kiếm sự gia tăng các chi thể về số lượng, bằng cách
tự tháo gỡ mình khỏi việc đào luyện, hay qua thái độ hăm hở bỏ qua qui chế giáo
luật mà ban phát mọi sự cho mọi người, và rơi xuống trình độ mất phẩm giá một
cách tổng quát. Ngược lại, khẩn thiết phải có một thừa tác mục vụ ngỏ với mọi
người, tuy phải dị biệt hóa, để săn sóc trước hết cho một thiểu số, là những
người sẵn sàng hơn, để rồi qua họ vươn tay ra với mọi người khác. “Chúng ta là các nhà truyền giáo, trước
nhất, vì những gì chúng ta hiện là như một Giáo Hội, mà sự sống thâm sâu nhất
là kết hợp trong tình yêu, trước cả việc ta trở thành các nhà truyền giáo trong
lời nói hay hành động” (Thánh GH Gioan Phaolô II, Redemptoris Missio, 34).
Điều cần
thiết là chấp nhận mọi người và vươn tay ra với mọi người, nhưng bằng những
cách khác nhau; cũng cần phải phát triển một cách đầy xác tín và kiên nhẫn lòng
sùng kính bình dân, nhưng điều khẩn thiết hơn nhiều là đào tạo các Kitô hữu và
các gia đình Kitô hữu gương mẫu như đã nói trên đây. Muốn chiếu sáng và sản
xuất ra hơi nóng, việc đầu tiên phải làm là nhóm lửa.
Ghi
chú
(1) Đây là
điều được Đức Phanxicô củng cố, trong bài giáo lý hàng tuần vào ngày thứ Tư, 24
tháng 6, 2015. Theo Sở Thông Tin Tòa Thánh, ngài nói tới những trường hợp
trong đó, không thể tránh được việc ly thân hoặc cần thiết về phương diện luân
lý “phải chuyển người phối ngẫu yếu đuối
hơn, hay trẻ nhỏ, ra khỏi các vết thương do ngạo mạn và bạo lực, do làm mất
nhân phẩm và bóc lột, do ghẻ lạnh và dửng dưng gây ra”. Nhiều người dịch
chữ “separazione” của Đức Phanxicô là
“chia ly”, thiểt nghĩ không chính
xác. Các báo thế tục còn hiểu chữ này như “ly
dị” nữa, khiến họ cho rằng ngài đồng ý cho ly dị, một việc chưa bao giờ có
trong Giáo Hội. Thực ra, ly thân là từ chính xác nhất, và điều này, giáo luật
có dự liệu (điều 1153), không có gì mới mẻ cả. Vả lại, một số vị giáo
phẩm Công Giáo công khai nói rằng ly dị không có tội, nếu hiểu là ly dị dân sự,
miễn là đừng tái hôn. Điều này tương đương với ly thân theo giáo luật (ghi
chú của người trình bầy).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét