CARBOHYDRAT
Bác
sĩ Nguyễn Ý Đức
Việt Nam là một quốc gia
nông nghiệp, với truyền thống văn hóa Lúa Nước, nên cơm gạo là thực phẩm chính.
"Cơm ăn mỗi bữa mỗi thưng" .Vì thế khi nói đến bữa ăn là người mình
dùng hai chữ "ăn cơm". Xin mời các cụ ở lại dùng bữa cơm nhạt với nhà
chúng cháu" hoặc "Rước ông bà
lên sơi cơm ạ".
Gặp nhau vào buổi trưa,
buổi tối, ta thường hỏi thăm xem: "Bác đã ăn cơm chưa". Lưu tâm về sức
khỏe thì ta thưởng hỏi ăn được mấy bát cơm chứ không hỏi ăn được mấy lạng thịt,
mấy bó rau.
Cơm đã đi vào con người
Việt Nam từ mấy tháng sau khi ra khỏi dạ con của mẹ hiền:
" Ngồi buồn nhớ mẹ
ta xưa,
Miệng nhai cơm búng, lưỡi
lừa cá xương".
Tới khi mãn phần, con
cháu cũng còn nhớ "các ngày giỗ tết cúng cơm các Cụ".
Mà cơm là từ gạo. Gạo
nàng hương, gạo cẩm, gạo ba trăng, gạo dự, gạo ré, tám xoan, gạo trắng, gạo đỏ,
rồi gạo chiêm, gạo mùa ...
Gạo nằm trong nhóm chất
dinh dưỡng Carbohydrat với hai thành phần chính là tinh bột và đường.
Về phương diện hóa học,
carbohydrat gồm có các phân tử carbon, hydrogen và oxygen. Ða số carbohydrat do
thực vật cung cấp và là một trong những chất dinh dưỡng căn bản của con người.
Ðó là chất đạm, chất béo và Carbohydrat.
Ðường và tinh bột sẽ được
cơ thể chuyển hóa ra các chất glucose, fructose, galactose. Glucose lưu thông
trong máu và cung cấp năng lượng cho các tế bào. Khi tế bào không dùng hết thì
glucose sẽ được chuyển hóa thành glycogen và được tồn trữ trong bắp thịt và gan
hoặc được chuyển hóa thành mỡ.
Khi đường trong máu xuống
thấp, tuyến tụy sẽ tiết ra một loại hormon là
Glucagon để chuyển glycogen trở lại thành glucose.
Phân loại carbohydrat.
Carbohydrat được chia ra
làm hai loại tùy theo cấu trúc hóa học và khả năng tiêu hóa.
1-
Carbohydrat
dạng Ðơn: Nhóm này chủ yếu là các loại đường đơn.
Gọi là đơn vì chất dinh
dưỡng này có cấu trúc hóa học đơn giản nhất, chỉ có một phân tử đường. Ðường mà
ta thường dùng là một ví dụ.
Ðường thiên nhiên có nhiều
tên, nhiều dạng như là fructose, glucose (còn gọi là dextrose) maltose, lactose
và cồn (alcohol) sorbitol và xylitol. Ðường thiên nhiên có trong trái cây, rau,
sữa và rất dễ tiêu hóa
Ðường trong kẹo bánh,
cereal ngọt, nước uống chế biến và đường trắng cung cấp năng lượng nhưng không
có chất dinh dưỡng (empty calories).
2-
Carbohydrat dạng Phức Hợp:
Nhóm này có hai dạng
chính là tinh bột (starch) và chất xơ (fiber).
Gọi là phức hợp vì chúng
là phần tử lớn với nhiều chuỗi hóa học, cần được tháo gỡ trước khi tiêu hóa.
Có ba loại carbohydrate chính:
a-Ngũ
cốc hoặc hạt của các cây lương thực như thóc gạo, mỳ
(wheat), ngô, lúa mạch (barley), lúa mạch đen (rye), kê (millet), yến mạch
(oats).
b-Nhóm
thứ hai rất quan trọng là loại hạt đậu (pea, bean) vì chúng có
nhiều chất đạm. Nếu vì lý do nào đó mà ta cần giảm đạm động vật, có thể dùng
thêm đậu để có đủ chất đạm cho cơ thể.
c-Nhóm
củ như khoai ta, khoai tây.
Carbohydrat là nguồn thực
phẩm chính của dân chúng, ngoại trừ ở một số quốc gia phát triển, nơi đây họ
tiêu thụ nhiều chất đạm, chất béo động vật.
Một gram carbohydrat cho
4 Kcalori.
Carbohydrat là nguồn cung
cấp đường glucose quan trọng cho cơ thể. Não bộ và hệ thần kinh hoạt động được
là nhờ năng lượng do glucose cung cấp.
Những năm gần đây, ta thấy
chế độ dinh dưỡng giảm carbohydrat, tăng thịt được quảng bá rộng rãi với mục
đích tránh béo phì, vì có ý kiến cho rằng béo là do ăn nhiều carbohydrat. Tuy
nhiên cũng có nhiều người không đồng ý với phương pháp này. Thực ra chỉ mập phì
khi vừa ăn nhiều tinh bột và mỡ béo hoặc ăn tới mức mà cơ thể không tiêu thụ hết
thì nó sẽ biến thành mỡ. Muốn giữ mình cho khỏi mập phì, ta nên hạn chế lượng
carbohydrat ở mức 50-60% tổng số năng lượng mỗi ngày, trong đó chỉ 10% là đường
trắng.
Thực phẩm giàu
carbohydrat liên hợp lại chứa nhiều chất bổ như sinh tố, khoáng chất và đôi khi
còn có nhiều nước và chất xơ. Một vài loại rau đậu còn chứa cả chất đạm.
Ngoài giá trị dinh dưỡng
và cung cấp năng lượng, carbohydrat còn có công dụng hạ cholesterol trong máu,
làm giảm nguy cơ bệnh tim, vữa xơ động mạch, ung thư ruột già, ung thư vú và một
số bệnh tiêu hóa khác. Ðó là nhờ thành phần chất xơ của cám gạo
Bảng dưới đây cho biết lượng
carbohydrat có trong một số thực phẩm thông thường:
Thực phẩm
Lượng carbohydrat (gr)
Gạo nếp (100g) 74,9
Gạo tẻ (100g) 76,2
Chuối: một trái cỡ trung
bình 24
Táo một trái cỡ trung
bình 24
Bánh mì, một lát
19
Mì sợi
74
Ðậu phụng
15,5
Nho khô
11
Xì dầu đậu nành, 1 muỗng
canh 1.7
Dưa hấu
2.7
Khoai tây
32
Khoai lang
28,5
Khoai mì
36,4
Mật ong một ly 240ml 27,9
Cà rem một ly
27
Xoài một quả
39
Cam một quả 16
Cám và công dụng
Cám (Bran) là vụn của lớp
màng mỏng mầu nâu bọc ngoài hạt gạo, dưới lớp trấu. Cám có nhiều chất xơ, tinh
dầu, đạm, sinh tố B, riboflavin, niacin và các khoáng như sắt, phosphore,
potassium. Hiện nay cám gạo đang được các nhà dinh dưỡng nghiên cứu về công dụng
trị bệnh.
Vào thập niên 1960, một
bác sĩ người Anh, Dennis P Burkitt, nhận thấy dân chúng ở nhiều vùng thuộc
châu Phi rất ít mắc các bệnh tim mạch,
tiêu hóa, ung thư vú, ruột già, dạ con, nhiếp hộ tuyến. Qua sự theo dõi nghiên
cứu, ông nhận ra là người dân ở đó ăn
nhiều loại hạt còn để vỏ cám. Ông ta nêu giả thuyết là cám có công dụng giảm
thiểu các bệnh kể trên nhờ chứa nhiều chất xơ. Từ đó, dấy lên phong trào dùng
thực phẩm có nhiều cám phổ biến khắp thế giới.
Các nghiên cứu cho thấy
việc dùng cám có ưu điểm nhưng cũng có mặt bất lợi cho sức khỏe. Chất xơ trong
cám lúa mì không hòa tan trong nước, khi đi qua ruột sẽ hút nhiều nước làm cho
phân lớn mềm, dễ bài tiết ra bên ngoài. Nhưng dùng nhiều quá thì nó lại gây ra
đầy bụng, no hơi.
Có nghiên cứu cho rằng
cám lúa mì có thể làm giảm nguy cơ viêm ruột già. Chất xơ trong cám yến mạch
(oat) hòa tan trong nước, dính với nhau, có công dụng làm giảm cholesterol
trong máu và giúp chuyển hóa đường glucose, giảm nhu cầu insulin cho cơ thể.
Còn cám gạo thì cũng có công dụng giảm cholesterol trong máu nhờ chất xơ không
hòa tan trong nước và chất dầu bất bão hòa nằm trong nhân của hạt gạo.
Cám bên ta thường được
dùng để nấu thức ăn cho heo, cho lợn (cám lợn gồm có bèo ta hoặc bèo Nhật Bản
và cám) hoặc để cho gà cho ngựa ăn.
Nói chung, bổ sung các loại
cám vào thực phẩm có thể giúp giảm cân vì ăn vào mau no nên bớt được ăn quá nhiều
các món ăn khác. Tuy nhiên, dùng quá nhiều cám có thể đưa đến giảm hấp thụ các
khoáng calcium, sắt, kẽm, magnesium ở ruột; làm tắc nghẽn ruột hoặc làm trầm trọng
thêm các bệnh đường ruột.
Gạo
Ta cần phân biệt:
- Lúa là cây còn mọc ở
ngoài đồng sau khi được gieo mạ, cấy lúa;
- Thóc là những hạt lúa
đã được lấy khỏi cây lúa; và
- Gạo là phần ăn được của
thóc sau khi xay bằng cối xay, giã trong cối giã gạo (xay thóc, giã gạo).
Ngày nay, người ta cho
thóc vào máy cơ khí, chạy ào một lúc là được những hạt gạo trắng tinh, ăn mềm
hơn nhưng lại mất đi một số sinh tố trong màng bao bọc gạo.
Gạo là thực phẩm chính của
nửa dân số trên thế giới. Tại nhiều quốc gia, gạo được ăn hai bữa chính mỗi
ngày và đôi khi được coi như một nguồn cung cấp chất đạm. Chẳng hạn ở Việt Nam,
Trung Hoa, mỗi ngày dân chúng ăn cơm nhiều gấp đôi ở các nước Âu Mỹ.
Người mình coi cơm quý
giá như bà mẹ ruột, trong câu ví dân gian
"Cơm tẻ, mẹ ruột"
hoặc
"Tôm càng lột vỏ bỏ
đuôi, Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già",
và "Người sống vì gạo,
cá bạo vì nước"...
Gạo có nhiều lợi điểm:
- Có nhiều sinh tố,
khoáng, đạm lại hầu như không có chất béo và rất ít muối;
- Dễ tiêu, không gây dị ứng,
thích hợp cho mọi lứa tuổi từ già tới trẻ;
- Cách nấu nướng cũng giản
dị, giá tương đối rẻ và việc cất giữ không khó khăn cầu kỳ.
Việt Nam ta có hai mùa
lúa chính là vụ chiêm và vụ mùa.
Chiêm là cấy khi thời tiết
bắt đầu ấm áp, sau TẾT và thu hoạch vào tháng 5 tháng 6. Mùa là vụ gieo cấy vào
mùa mưa và thu hoạch vào cuối mùa mưa tháng mười.
"Chiêm khê, mùa thối"
cũng ảnh hưởng tới gạo: Gạo chiêm nấu cơm không nở bằng gạo mùa. Ngoài ra còn
các vụ Ðông- Xuân và Hè-Thu tùy theo điều kiện thời tiết địa phương và phương
pháp canh tác mới.
Việt Nam có nhiều loại gạo
khác nhau: gạo ba giăng cấy ba tháng đã gặt được; ba thắt của miệt Hậu Giang; gạo
cẩm mầu nâu sẫm để nấu rượu cẩm uống vào dịp Tết; gạo ré là một loại gạo mùa nhỏ
hột cơm ngon; gạo dự thơm, dẻo ngon được nhiều người quý; gạo tám thơm, tám
xoan, Nàng Hương chợ Ðào ( Gạo Cần Ðước, nước Ðồng Nai) ...
Trên thị trường có gạo tẻ
hạt dài, hạt ngắn và trung bình.
Chuyên gia Canh Nông
Wallace Yokoyama lại cho là có 4 loại gạo: gạo hạt dài, trung bình và ngắn với
chỉ số đường huyết thấp và gạo nếp sweet/sticky rice có CSĐH cao hơn gạo tẻ. Gạo
trắng có CSĐH cao hơn gạo nâu brown rice hoặc gạo lức.
Với hạt dài, cơm rời và sốp
rất tiện lợi cho việc nhồi gà, nhồi cá hoặc làm cơm rang. Cơm gạo hạt ngắn, đôi
khi gọi là hạt tròn, thì dính với nhau.
Gạo nếp để nấu sôi, làm
bánh chưng, bánh dày; gạo tẻ hạt nhỏ hơn nếp, là gạo nấu cơm hàng ngày hoặc chế
biến thành bột làm bánh đa, bánh cuốn, bánh đúc, bánh canh...
Gạo tám xoan đã đi vào
văn học dân gian với
"Gạo tám xoan, chim
ra ràng, gái mãn tang, gan gà giò"
nói lên những món ăn ngon
và người phụ nữ sung mãn, giầu tình cảm sau thời gian tiết chế, đoạn tang chồng.
Hoặc
"Tiếc thay hạt gạo
tám xoan; Thổi nồi đồng điếu, lại chan nước cà".
Vâng, gạo thơm quý như vậy
mà nấu với nồi đồng nguyên chất thì cơm nhão mà lại ăn với nước cà muối vừa
chua vừa chát thì cũng phí đi.
Gạo lức là gạo xay mà
không giã còn lớp vỏ bọc nên có nhiều sinh tố, đặc biệt là sinh tố E; nhiều đạm,
phosphore, potassium. Gạo-lức-muối-mè đã được coi như một phương thức dưỡng
sinh ăn uống, gìn giữ sức khỏe.
Vì không có cám nên gạo
trắng nấu cơm mau hơn và để dành được lâu hơn gạo đỏ.
Xin giải thích thêm về Chỉ
số Đường huyết (Glycemic index).
Chỉ số đường huyết là khả
năng mà một loại thực phẩm chứa carbohydrate có thể nâng cao glucose trong máu
và duy trì mức độ cao này trong vòng 2 giờ sau khi ăn và trước khi có phản ứng
điều hòa đường huyết của cơ thể.
Chỉ số tùy thuộc vào tốc
độ chuyển hóa carbohydrate ra glucose chứ không tùy thuộc số lượng Carbohydrate
trong món ăn đó. Các loại thực phẩm chứa carbohydrate có chỉ số đường huyết
khác nhau. Chẳng hạn gạo có chỉ số từ 54 tới 132 còn khoai tây từ 67-158.
CSĐH càng thấp càng có lợi
cho một số bệnh nhân. Chẳng hạn người mắc bệnh tiểu đường cần sử dụng thực phẩm
có CSĐH thấp để tránh đường huyết vọt lên quá cao.
Theo bác sĩ David S.
Ludwig, liên tục tiêu thụ thực phẩm có CSĐH cao có thể tăng rủi ro mập phì, tiểu
đường loại 2 và bệnh tim.
a-
Thực phẩm có CSĐH cao:
Bánh,bún, cơm, hạt ngũ cốc
Cereal, thực phẩm nướng (bánh nướng) Baked goods
b-
Thực phẩm có CSĐH thấp:
Trái cây rau, các loại hạt
còn nguyên Whole grains, đậu Legumes, mảnh bắp corn flakes (92), khoai tây nghiền
mashed potatoes (74), bánh gối tròn doughnuts (76), bánh trắng white Bread
(73), táo (38), hạt đậu khô dried beans (30), đậu lentils (30).
Nấu cơm
Nấu cơm ngon cũng là một
nghệ thuật cần nhiều kinh nghiệm. Ngày xưa, người thiếu nữ nào mà nấu cơm "trên sống dưới khê" thì có thể cô
đơn suốt đời. Nhiều địa phương ở nước nhà vẫn còn duy trì tục lệ thi nấu cơm.
Trước khi nấu com, nhiều
người thường mang gạo ra vo với nước để
loại bỏ sạn, trấu. Nước vo gạo được giữ để nấu cám cho lợn hoặc ngâm ốc cho nhả
hết đất cát, chất nhờn.
Ngày nay, gạo xay bằng
máy, mất bớt chất dinh dưỡng, nên thường được tăng cường ba loại sinh tố B và sắt.
Cho nên, để khỏi mất dinh dưỡng, cũng không cần vo đãi vì sau khi chạy máy, gạo
được cho vào túi kín, không lẫn bụi cát. Nhưng nếu gạo không gói kín thì cần rửa
qua cho sạch bụi.
Muốn có cơm dẻo, nước phải
cho vừa đủ theo từng loại gạo chiêm, mùa, mới cũ và theo kinh nghiệm cá nhân của
từng người.
Nhiều người cho là đun nước
cho sôi rồi mới đổ gạo vào nấu, thì cơm mới dẻo, mới ngon. Bây giờ, với nồi cơm
điện, nước và gạo đều cho vào cùng lúc cho đơn giản. Vậy mà cơm cũng ngon đáo để
và nếu muốn ăn cháy, chỉ việc bấm điện “on-off” nhiều lần là có ngay những miếng
cháy vàng ngon.
Cơm nồi đất ngon hơn nồi
đồng, nồi nhôm. Cơm cháy nồi đất cũng thơm bùi hơn nhất là khi nồi cơm được ủ với
rơm âm ỉ cháy.
Khi nồi cơm sôi được ít
phút, nhiều bà mẹ chắt bát nước cơm để dành cho con thơ hoặc bố mẹ già rụng hết
răng uống. Nước cơm chắt đặc quánh có rất nhiều chất bổ dưỡng.
Hương vị và giá trị dinh
dưỡng của cơm gạo đã được diễn tả rất đầy
đủ, như là:
" Cơm trắng ăn với
chả chim,
Chồng đẹp vợ đẹp, những
nhìn mà no"
hoặc ví von:
" Cơm chín tới, cải
vồng non,
Gái một con trông mòn con
mắt"
hoặc bữa ăn
"Thủng nồi trôi rế"
với
"Có cá đổ vạ cho
cơm"...
Bánh mì
Ở quê hương mình khi xưa
nhiều người quen gọi bánh mì là bánh Tây. Ðó là vì bánh mì do người người
phương Tây mang vào. Ðược mời ăn lần đầu, mấy anh bạn "nhà quê" thấy
ruột bánh tây lỗ chỗ như tổ ong bèn không ăn, chê là bánh tây có mọt.
Bánh làm từ bột mì, đã được phổ biến từ thời tiền sử như
là món ăn chính của nhiều vùng trên trái
đất.
Với Thiên Chúa Giáo,
trong Bữa Ăn Cuối Cùng, Chúa Jesus bẻ bánh chia xẻ với môn đồ là nói lên ý
nghĩa của lòng vị tha.
Người Ai Cập cổ xưa đã
khám phá ra phương thức làm bánh mì bằng cách để bột gạo lên men, làm cho bột nổi
lên. Ngày nay men vẫn còn được dùng và bánh lên men có thêm một số sinh tố, dưỡng
chất do các vi khuẩn nấm men sinh ra.
Từ năm 1790, ngưỡi Mỹ
nghĩ ra cách làm bột nhão nổi phồng lên bằng hóa chất baking soda. Hóa chất này
được thông dụng khắp nơi trên thế giới, vì rút ngắn được thời gian làm bánh.
Làm bánh tương đối giản dị:
chỉ cần nghiền hạt mì ra bột, trộn với nước và vài chất xúc tác như men, baking
soda, chất bột nổi cho nhão, đổ khuôn rồi bỏ lò. Nhiều khi, để có hương vị đặc
biệt, bột còn được trộn thêm với sữa, la de, nước trái cây, đường, mật ong, bơ,
trứng, trái cây khô
Bánh mì chứa nhiều tinh bột,
đạm, một số khoáng chất như sắt, calci, và các sinh tố B1, B2. B3 nhưng thiếu
các sinh tố C, B12, A và D.Tuy nhiên, một phần các chất dinh dưỡng này bị mất
đi trong việc chế biến cho nên bánh mì ngày nay thường được các nhà sản xuất bổ
sung các chất này.
Một lát bánh mì (25g) cung
cấp khoảng 70 calori.
Bánh mì tự nó không làm mập,
trừ phi chúng ta dùng kèm với bơ, margarine hoặc các chất béo khác.
Kết luận
Vào năm 1858, linh mục E
Boilleveaux có viết trong sách Cuộc hành trình sang Ðông Dương, rằng:
"Bên An Nam, dân
chúng không biết bánh mì, bơ sữa là gì. Thực phẩm chính của họ là cơm ăn với cá
tươi, cá khô ướp với nước mắm".
Vâng, cơm gạo là thực phẩm
chính của con dân chúng mình:
"Ðói thì thèm thịt
thèm xôi,
Hễ no cơm tẻ thì thôi mọi
đuờng".
Khái niệm ăn uống thiên về
tinh bột cộng với chất đạm trong cá mú của người dân ta thế mà có căn bản khoa
học và cũng biết phối hợp, đa dạng như ai. Chẳng thế mà ngày nay, y khoa học
phương Tây đã "bắt chước, áp dụng" theo. Họ chẳng đã khuyên rằng,
trong khẩu phần ăn hàng ngày, Carbohydrat nên chiếm từ 50%-60% tổng số năng lượng;
đạm và chất béo lãnh phần còn lại.
Ai bảo Ðông Tây chẳng gặp
nhau, chẳng cùng có ý kiến tốt như nhau và chẳng hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét