Giáng Sinh dưới mắt thần học gia Ratzinger
(Mon,
26/12/2016 - Vũ Văn An)
Lễ Giáng Sinh cuối cùng
trong tư cách giáo hoàng trị vì, tức năm 2012, Đức Bênêđíctô XVI, nhân dịp giảng
Lễ Giáng Sinh tại Đền Thờ Thánh Phêrô, đã cảm kích nói đến việc “vẻ đẹp của đoạn
Tin Mừng này làm tâm hồn chúng ta xúc động: một vẻ đẹp vốn chói chang sự thật.
Nó luôn làm chúng ta ngạc nhiên khi Thiên Chúa tự biến mình thành một trẻ nhỏ để
chúng ta có thể yêu mến Người, để chúng ta có thể dám yêu mến Người, và như một
trẻ nhỏ, tự để Người cho chúng ta ôm ẵm. Như thể Thiên Chúa muốn nói rằng: Ta
biết vinh quang của ta làm chúng con sợ hãi, và chúng con luôn cố gắng muốn khẳng
định tư cách của chúng con trước sự cao cả của Ta. Nên giờ đây, Ta đến với
chúng con như một trẻ nhỏ, để chúng con có thể tiếp nhận Ta và yêu mến Ta”.
Bốn năm sau, nhân nói
chuyện với nhân viên Giáo Triều dịp Lễ Giáng Sinh 2016, Đức Phanxicô lặp lại gần
như nguyên vẹn các ý tưởng trên, lồng trong một trích đoạn, không phải của vị
tiền nhiệm tức khắc, mà là của Chân Phước Phaolô VI:
“Thiên Chúa có thể đến bọc
trong vinh quang, huy hoàng, chói lọi và đầy quyền lực, để chúng ta sợ hãi, để
chúng ta giụi mắt kinh ngạc. Nhưng thay vào đó, Người đã đến như một con người
bé nhỏ nhất, mòng dòn và yếu ớt nhất. Tại sao? để không ai xấu hổ khi đến gần
Người, để không ai phải sợ sệt, để mọi người có thể tới gần Người, tới sát bên
Người, để không còn khoảng cách nào giữa chúng ta và Người. Thiên Chúa đưa ra cố
gắng lao mình xuống, lặn sâu trong chúng ta, để mỗi người chúng ta, mỗi người
trong anh chị em, có thể chuyện trò thân mật với Người, tin tưởng nơi Người, tới
gần Người và hiểu rõ rằng Người nghĩ đến anh chị em và thương yêu anh chị em…
Thiên Chúa quyết định trở thành một trẻ thơ tí hon vì Người muốn được yêu mến”.
Và từ luận lý học nói
trên, Đức Phanxico đã nói tới việc cải tổ Giáo Triều, không theo “luận lý học
thế gian, không theo não trạng quyền lực và sức mạnh, tư duy Biệt Phái và những
người chỉ thấy sự việc theo định luật nhân quả hooặc định mệnh thuyết”. Mà là
luận lý học khiêm nhường.
Ngày sinh của Chúa Giêsu
Cũng trong tinh thần
khiêm nhường ấy, Đức Bênêđíctô XVI đã “từ bỏ” ngôi vị Giáo Hoàng của mình ngay
từ năm 2007 khi cho xuất bản cuốn đầu tiên, tựa là “Jesus of Nazareth” trong bộ
ba cuốn viết về Chúa Giêsu của ngài. Thực vậy, khi cho xuất bản cuốn này, Đức
Bênêđíctô nói rõ: khảo luận này “không hề là một thao tác của huấn quyền” mà
đúng hơn “nói lên việc bản thân [tác giả] đi tìm gương mặt của Chúa” hay nói một
cách trực tiếp hơn, đây là công trình của một thần học gia, kết luận việc làm
có tính khoa học của Giáo Sư Ratzinger.
Năm 2012, cuốn sau cùng của
bộ ba trên được xuất bản dưới tựa đề “Jesus of Nazareth: The Infancy Narative”
(Chúa Giêsu Nadarét: Trình Thuật Tuổi Thơ).
Báo Time hồi ấy, khi đưa
tin về cuốn sách trên, đã cho rằng “Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI tranh luận về
năm sinh của Chúa Giêsu… Gợi ý cho rằng Chúa Giêsu không thực sự sinh ra vào
ngày 25 tháng Mười Hai vốn được các nhà thần học, các nhà sử học và các nhà
lãnh đạo tinh thần tranh luận không thôi, nhưng điều làm cho vụ này ra khác là
nay nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo là người nêu ra câu hỏi này”.
Đặt tin như thế quả là cố
tình lập lờ và coi thường lời nói trên đây của ngài khi cho xuất bản cuốn đầu
tiên. Ngài không viết dưới danh hiệu Giáo Hoàng mà là thần học gia Ratzinger.
Chính trong tư cách này, ngài cho rằng Chúa Giêsu rất có thể đã sinh ra trước
niên hiệu ta vốn nghĩ. Vì lịch ta hiện dùng, tức lịch bắt đầu với ngày sinh của
Chúa Giêsu, đã được lập ra bởi Dionysius Exiguus, một đan sĩ thế kỷ thứ 6. Lịch
này rất có thể sai.
Trong cuốn sách trên, tác
giả giải thích rằng Exiguus, người được coi như nhà sáng chế ra lịch Kitô Giáo,
“đã lầm trong cách tính toán của ông đến vài năm. Ngày Chúa Giêsu thực sự sinh
ra có thể trước đó một ít năm”.
Thực thế, Tin Mừng
Mátthêu cho hay: Chúa Giêsu sinh ra lúc Hêrốt Đại Vương đang cai trị Giuđêa. Và
vì Hêrốt chết năm thứ 4 trước Công Nguyên, nên Chúa Giêsu hẳn phải đã sinh ra
trước năm theo tính toán của Exiguus.
Thực ra, đây cũng chỉ là
một lập luận vì Tin Mừng Luca thì quả quyết Chúa Giêsu sinh ra lúc Quirinius
làm Tổng Trấn ở Syria, năm thứ 6 Công Nguyên.
Tuy nhiên, trọng tâm của
thần học gia Ratzinger không phải ở đó. Điều ngài muốn nhấn mạnh là tái xác nhận
tín lý Chúa Giêsu được sinh ra cách đồng trinh, một chân lý đức tin “không thể
đặt thành nghi vấn”. Theo ngài, đây là hòn đá tảng của đức tin, dấu chỉ “quyền
năng sáng tạo của Thiên Chúa… Nếu Thiên Chúa không có quyền năng trên vật chất,
thì Người đơn thuần không phải là Thiên Chúa”.
Thần học gia Ratzinger
cũng đề cập tới “vấn đề lịch sử được giải thích” (interpreted history). Theo
ngài, “mục đích của các soạn giả Tin Mừng không phải là đưa ra một trình thuật
thấu đáo, nhưng ghi lại những gì xem ra quan trọng đối với cộng đồng đức tin mới
phát sinh… Các trình thuật tuổi thơ là lịch sử được giải thích, được cô đọng và
viết xuống phù hợp với việc giải thích”.
Nhưng tác giả vẫn nhấn mạnh
rằng lịch sử các ngài kể quả là “những gì thực sự đã xảy ra”. Nói cách khác,
trái với mong chờ của ta trong tư cách những con người nam nữ hiện đại, các
thánh sử không nhằm cung cấp cho ta một tường thuật như in (video report) cuộc
sống gia đình của Chúa Giêsu hay chép lại chính xác lịch sử gia đình Người. Đấy
không phải là quan tâm của những người Do Thái và Kitô hữu thời Chúa Giêsu, và
do đó, không nên bắt các ngài phải theo đúng tiêu chuẩn sử học của ta ngày nay.
Nói theo kiểu nói của thần
học gia Ratzinger, điều quan yếu là “mục đích yếu tính” của các ngài. Đây là kiểu
nói được dùng nhiều lần trong tác phẩm mà nếu nói theo ngôn từ của trường phái
Thomist, nó có nghĩa: phải nhận diện được những điều thuộc bản chất
(substantial) của bản văn Thánh Kinh ngược với những điều chỉ có tính phụ thuộc
(accidental).
Như Công Đồng Vativan II
vốn dậy, mọi điều được các tác giả của Thánh Kinh quả quyết đều được Chúa Thánh
Thần linh hứng và do dó, không sai lầm. Nhưng ta phải thận trọng biện phân bản
chất chính xác của nó nếu không mốn rơi vào các chủ trương cực đoan, coi mọi điều
Thánh Kinh viết đều là sự thật tuyệt đối.
Với nguyên tắc đó, tác giả
kết luận như sau về các trình thuật xem ra không tương hợp với nhau bao nhiêu về
gia phả Chúa Giêsu của các Tin Mừng Mátthêu và Luca:
“Cả hai tin mừng gia đều
không quan tâm nhiều tới các tên cá nhân cho bằng cấu trúc biểu tượng trong đó,
vị trí của Chúa Giêsu trong lịch sử được sắp đặt trước mắt ta: sự phức tạp của
việc Người được đan kết với các tuyến lịch sử của lời hứa, cũng như sự bắt đầu
mới vốn lên đặc điểm cho nguồn gốc của Người song song với tính liên tục của
hành động Thiên Chúa trong lịch sử”.
Nhưng thần học gia
Ratzinger có cái hiểu đặc biệt về chữ biểu tượng vì, như trên đã nói, ngài
không hề có ý nói: các trình thuật của Tin Mừng chỉ là các biểu tượng, không hề
có nội dung lịch sử.
Nhận định về gia phả của
Chúa Giêsu, thần học gia Ratzinger cho rằng: tuy không dùng chữ gia phả, nhưng
“tự ngôn” của Thánh Gioan là “gia phả” căn cội nhất trong các Tin Mừng, vì ngài
không những tìm căn cội của Chúa Giêsu nơi Ápraham hay nơi Ađam như hai tin mừng
gia kia, mà leo lên tới tận Thiên Chúa: “từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi
Lời vốn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa”. Bản chất của Thánh Kinh
là thế. Một bản chất vụ thực (realist) hơn cả.
Lễ Giáng Sinh theo Joseph Ratzinger
Đó là tựa đề một bài báo
của Andrea Gagliarducci viết ngày 26 tháng Mười Hai năm 2011. Theo ông, Đức
Bênêđíctộ XVI luôn coi Ngày Giáng Sinh là một ngày đặc biệt. Vào ngày này, gia
đình ngài thường họp mặt và Đức Ông Georg, anh trai ngài, thường từ Đức tới thẳng
Vatican. Hai anh em ăn với nhau một bữa ăn Đức hết sức đặc trưng. Rồi họ cùng
suy niệm về mầu nhiệm sinh hạ Thiên Chúa, thường là trước Hang Đá. Tại Phủ Giáo
Hoàng, có hai Hang Đá, một là Hang Đá do chính Georg và Joseph làm hồi còn nhỏ.
Đức Bênêđíctô cầu nguyện trước Hang Đá này và suy niệm. Và một phần trong bài
suy niệm có thể tìm thấy trong các bài giảng lúc ngài chưa làm giáo hoàng.
Ta hãy lui về lịch sử một
chút. Đó là mùa Giáng Sinh năm 2000, Năm Đại Thánh. Tờ 30 Giorni, một nguyệt
san quốc tế, yêu cầu Đức Hồng Y Joseph Ratzinger viết một bài gần như xã luận
nhân dịp Lễ Giáng Sinh.
Ngài viết: “Trong Mùa
Giáng Sinh, chúng ta trao đổi quà cáp, hân hoan với nhau và dự phần vào niềm
vui được các thiên thần loan báo cho mục đồng, nhớ lại Đấng mà Thiên Chúa đã
ban cho như một quà tặng cho nhân loại: Con của Người, Giêsu Kitô. Thiên Chúa
đã chuẩn bị cho nhân loại tiếp nhận món quà này. Trong câu truyện dài này,
Thiên Chúa trở nên quen thuộc với việc ở với con người và con người trở nên
quen thuộc với việc hiệp thông với Thiên Chúa. Câu truyện này bắt đầu với đức
tin của Ápraham. Ápraham là cha của những người tin, cha của đức tin nơi người
Kitô hữu, là cha của chúng ta trong đức tin”.
Đức Hồng Y Ratzinger nhân
cơ hội này liên kết Giáo Hội với Israel. Vì theo ngài, đối với các Kitô hữu,
Israel và Giáo Hội không thể tách rời nhau. Ngài giải thích: “ai cũng biết cuộc
sinh hạ nào cũng đều khó khăn. Chắc chắn mối liên hệ giữa Giáo Hội đang xuất hiện
và Israel đôi lúc có tính thù nghịch. Giáo Hội bị chính mẹ mình coi như đứa con
gái thoái hóa, trong khi các Kitô hữu coi mẹ mình như đui mù, cố chấp”. Và điều
này dẫn tới nhiều thái độ bài Do Thái.
Một bài giảng khác được
ngài lấy hứng nhân dịp viếng Đài Thiên Văn Vatican ở Castelgandolfo năm 1994.
Đây là đài thiên văn do các cha Dòng Tên điều khiển. Trong nhiều thế kỷ, các
cha dòng Tên vẫn leo lên Đài Thiên Văn này để quan sát bầu trời. Nhưng ngày
nay, Đài này đã trở thành gần như một viện bảo tàng. Các dụng cụ ở đó vẫn còn
dùng được. Nhưng ánh đèn của Thành Phố Rôma và của cả Âu Châu nay sáng quá khiến
các cha không tài nào quan sát được bầu trời nữa. Thành thử một đài thiên văn mới
đã phải được xây dựng trên Núi Graham ở Tiểu Bang Arizona, Hoa Kỳ.
Đức Hồng Y Joseph Ratzinger
đến viếng Đài Thiên Văn ở Castelgandolfo trước Lễ Giáng Sinh ít ngày. Ngài có ấn
tượng sâu sắc đến nỗi đã nhắc đến nó trong bài giảng Lễ Vọng Giáng Sinh ở nhà
thờ Berchtesgaden. Ngài so sánh việc quan sát bầu trời với việc tìm kiếm Thiên
Chúa, việc đầu là ẩn dụ cho việc sau. Và ngài kết luận: “ánh sáng của con người,
ánh sáng do ta sản xuất ra đã che khuất ánh sáng của bầu trời. Ánh sáng của ta
đã che khuất các vì tinh tú của Thiên Chúa. Đây gần như một ẩn dụ: vì quá nhiều
các sự vật do ta tạo ra, ta khó nhận ra các dấu vết của Công Trình Sáng Thế của
Thiên Chúa, và chính Sáng Thế”.
Gấu Teddy, danh sách Giáng Sinh
Nhân dịp mừng 65 năm thụ
phong linh mục của Đức Bênêđíctô XVI, một chuyến du hành qua Bavaria đã được tổ
chức từ Rôma do sử gia Michael Hesemann, đồng tác giả cuốn “Em Trai Tôi, Đức
Giáo Hoàng” với Georg Ratzinger, tổ chức. Nhân dịp này, các người hành hương đã
khám phá nhiều điều lý thú về tuổi thơ của anh em nhà Ratzinger, nhất là những
hoài niệm liên quan tới Lễ Giáng Sinh.
Lúc lên hai, Joseph đã
cùng anh chị em qua bên kia phố ngắm nhìn thỏa thích các đồ trang trí Lễ Giáng
Sinh bầy bán ở một cửa hàng đối diện với nhà mình. Con ngươi trong mắt cậu là
con gấu teddy trưng ở cửa sổ. Ngày nào, cậu cũng tới ngắm nghía cho thỏa thích.
Nhưng rồi ngay ngày trước lễ Giáng Sinh, gấu bỗng biến mất. Cậu òa lên khóc,
không ai dỗ nổi. Phải đợi sau Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh, cậu mới hân hoan trở lại:
thì ra gấu đã xuất hiện dưới cây thông giáng sinh của gia đình!
Đến lúc 7 tuổi, cậu viết
trên một danh sách Giáng Sinh rằng: “con hứa sẽ là một người tốt”. Chắc chắn cậu
giữ lời hứa này. Để tưởng thưởng, cậu đã được ba đồ vật cậu tha thiết xin: một
chiếc áo để mặc chơi trò làm lễ với anh trai Georg, Sách Lễ dịch sang tiếng Đức
để cậu có thể học chữ La Tinh, và mẫu ảnh Thánh Tâm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét