KIÊN TÂM VỮNG CHÍ
(Chúa Nhật XX TN, năm A)
Chúa Giêsu đã căn dặn: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện,
để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu
hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38). Với lời khuyên ngắn gọn nhưng Ngài đề cập
hai vấn đề: Cầu Nguyện và Kiên Nhẫn. Cầu nguyện giúp chúng ta kết hiệp mật thiết
với Thiên Chúa, và làm cho chúng ta trở nên vĩ đại.
Kiên nhẫn là “loại cỏ” luôn phải đặt vào hành lý cuộc đời để đem
theo mình, nó như “bùa hộ mệnh” cần thiết cho mọi người. Kiên tâm vững chí là
tình trạng không dao động trước mọi hoàn cảnh hoặc bất cứ lời nói của ai. Cứ là
chính mình, và cố gắng giữ vững như kiềng ba chân, chắc chắn điều tất yếu sẽ xảy
ra: “Có chí thì nên”. Thật vậy, Saint Exupéry có lời khuyên hữu
ích: “Đừng đánh mất kiên nhẫn, vì đó là chiếc chìa khóa cuối cùng mở được
cửa”.
Sự kiên định và sự thận trọng có liên quan với nhau. Edward
Bulwer Lytton (1803-1873, tiểu thuyết gia, thi sĩ, kịch tác gia và chính trị
gia người Anh) cho biết: “Ai thận trọng quan sát và kiên quyết vững
vàng sẽ tự nhiên dần dần trở thành bậc anh tài”. Người kiên định và thận trọng
cũng là người có đủ can đảm để đương đầu với nghịch cảnh. Herbert Kaufman
(1878-1947, văn sĩ và ký giả người Mỹ) nhận định: “Thất bại chỉ là
thành công tạm thời bị trì hoãn, chừng nào lòng can đảm còn tôi luyện cho khát
vọng. Thói quen kiên định chính là thói quen chiến thắng”.
Bất kỳ ai cũng cần kiên trì, và trong mọi tình huống hoặc công
việc. Đối với cuộc sống đời thường đã vậy, đối với đời sống tâm linh càng cần
lòng kiên nhẫn hơn bao giờ hết – đặc biệt là khi cầu nguyện, chứ không thể tùy
hứng – vui thì cầu, chán thì thôi. Kiên tâm cầu nguyện không chỉ có giá trị đối
với chính mình mà còn có hiệu quả đối với người khác. Gương Thánh Monica là tấm
gương to lớn và sáng tỏ về việc cầu nguyện kiên định. Cách cầu nguyện của bà
Rút thật tuyệt vời: “Xin Thiên Chúa giáng phúc cho người đã quan tâm đến
con!” (Rút 2:19). Lời cầu đó như đóa hoa tươi nở, chắc chắn Thiên Chúa
rất vui lòng. Cầu nguyện cũng không chỉ là xin (cho mình hoặc cho người khác)
mà còn phải có tâm tình tạ ơn: “Tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều
tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm
tạ” (1 Tm 4:4).
Từ xa xưa, tiền nhân đã xác định: “Lửa thử vàng, gian
nan thử sức”. Kinh nghiệm sống đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thật đúng như
thế. Ngạn ngữ Phi châu có câu:“Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”.
Thật vậy, thử thách càng cao thì cơ hội càng lớn. Thời thế tạo anh hùng nhiều
hơn là anh hùng tạo thời thế, như cụ Phan Bội Châu (1867-1940) đã đặt vấn đề: “Ví
phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. Nếu anh cũng
như tôi, tôi cũng như chị, chẳng có gì hơn nhau thì cũng chẳng có gì đáng nói.
Không có bột mà gột nên hồ, thế mới là người đáng cho thiên hạ phải ngưỡng mộ
và tâm phục khẩu phục.
Cách so sánh của Garrison Keillor thật thú vị: “Cuộc sống
cũng giống như cuộc chiến, nếu mọi thứ bỗng trở nên yên lặng thì có nghĩa là bạn
đang thua trận”. Thế đấy, cuộc sống luôn đầy những thử thách, kinh nghiệm
này ai cũng có thể tích lũy theo thời gian. Nếu không có thử thách, làm sao
chúng ta có thể biết và nhận ra sức mạnh tuyệt vời vẫn đang tiềm ẩn trong chúng
ta? Vả lại, cuộc sống bình lặng sẽ nhàm chán vì đơn điệu, rồi lại hóa điên rồ: “Nhàn
cư vi bất thiện”. Chắc hẳn đã kinh nghiệm đường đời nên Toni Malliet mới
nói: “Thử thách không là gì cả, nhưng cơ hội ẩn chứa đằng sau thử thách
đó mới là điều đáng nói”.
Người ta thích chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, nhưng loại “bản
lĩnh” đó lại thường là rởm, dạng ngày nay gọi là “chảnh”. Không ai sợ người nói
nhiều, người ta chỉ sợ người im lặng. Đó mới là bản lĩnh đích thực. Họ biết mà
không nói, vì chưa đến lúc cần nói. Nếu bạn tỏ ra yếu mềm trước thử thách thì bạn
thật là “bé nhỏ”, và sức lực của bạn thật là yếu đuối. Vì thế, chẳng lạ gì khi
Chúa Giêsu luôn động viên chúng ta nên cố gắng “đi qua cửa hẹp” (Mt 7:13-14; Lc
13:24), tự tôi luyện trong gian khổ chứ không ung dung tự tại. Chắc chắn Ngài
không “xúi dại”, và hẳn là mọi thử thách đều có giá trị cao, bởi vì chính những
nỗi gian nan mới khiến người ta trưởng thành đúng nghĩa – gọi là “thành nhân”.
Thuở xưa, Thiên Chúa đã truyền dạy: “Hãy tuân giữ điều
chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức
công chính của Ta sắp được biểu lộ” (Is 56:1). Thời gian là của Chúa,
chúng ta chỉ là những người quản lý, không thể biết thời gian còn dài hay ngắn.
Do đó, sự tỉnh thức luôn cần thiết và cấp bách. Tỉnh thức là một dạng thử
thách. Chính sự thử thách khiến chúng ta phải coi chừng để mà khéo léo (khôn
ngoan) “canh me” hoặc “liệu cơm gắp mắm”.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Thiên Chúa chí nhân nhưng cũng tuyệt
đối công bình và chính trực, không thiên vị bất kỳ ai: “Người ngoại
bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở
nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những
ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi
nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu
và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is
56:6-7). Đừng ảo tưởng! Dù là ai, từ giáo hoàng tới giáo dân, từ bề trên tới
người giúp việc, từ tổng thống tới người ăn xin,... không ai có thể viện cớ gì
mà tự biện hộ: NẾU, TẠI, VÌ, BỞI, GIẢ SỬ, GIÁ MÀ, PHẢI CHI,... Không bao giờ có
“chuyện ví dụ” chi ráo trọi!
Nếu cảm thấy mình thiếu thốn gì thì cứ xin – xin nghiêm túc chứ
không “xin xỏ”. Khi thấy người khác xin thì chúng ta phải cho, nếu có thể (vì
phải có mới cho được). Vả lại, đó là sự công bằng. Ở đây là “xin–cho” trong
tương quan yêu thương và bác ái, chứ không “xin–cho” theo kiểu “chế độ ban
phát”. Tất cả chúng ta đều là những “người làm công” trong Vườn Nho của Chúa,
chẳng ai có quyền gì mà “chảnh” với nhau. Ý thức được như vậy, chúng ta mới khả
dĩ ước vọng như Thánh Vịnh gia: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc
phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường
lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Ở đây sử
dụng đại danh từ số nhiều chứ không số ít.
Chúng ta là phàm nhân, mà phàm nhân thì bất trác và bất túc, thế
nên luôn có rất nhiều mong ước về nhiều thứ – cả tinh thần lẫn vật chất. Nhưng
ước mong về tâm linh mới là ước mong quan trọng nhất: “Ước gì muôn nước
reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị
muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì
chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv
67:5-6). Công lý và công bình phải được tôn trọng thì con người mới được tôn trọng
đúng mức: Nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền.
Mỗi khi cầu chúc nhau điều gì thì phải thật lòng, không thể chỉ
“xã giao”. Trong Thánh Lễ có nghi thức “chúc bình an”. Nghi thức là để tránh lộn
xộn chứ đừng chỉ theo nghĩa đen của nghi thức. Tuy nhiên, một số người tỏ ra thụ
động trong khi cúi chào để thể hiện việc chúc bình an cho nhau, có người chỉ “co
cái cần cổ” chút xíu, nhìn vẻ rất miễn cưỡng, có người lại cứ đứng “ngay cu
đơ”. Ngay cả chủ tế cũng có người thụ động, gật đầu theo nghi thức, hai cậu lễ
sinh chả sơ múi gì! Trong tình hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta rất cần
chân thành cầu chúc nhau: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước
chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).
Với lòng chân thành, “lão gia” Phaolô bộc bạch: “Tôi xin
ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân
ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng
bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. Thật vậy, nếu vì họ bị
gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa thì việc họ được thâu
nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm
11:13-15). Ông cựu Biệt Phái Saolê muốn người ta “ganh tị” chứ không “ghen tị”
hoặc “ghen ghét”, nhưng phải là ganh tị về điều thánh đức, muốn cứu các linh hồn,
chứ không ganh tị về những thứ trần tục.
Đúng như thế, Thánh Phaolô đã xác quyết: “Quả thế, khi
Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:29).
Ông cho biết thêm rằng “trước kia chúng ta đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng
nay chúng ta đã được thương xót, vì họ không vâng phục; họ cũng thế: nay họ
không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót chúng ta, nhưng đó là để chính
họ cũng được thương xót. Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội
không vâng phục để thương xót mọi người” (Rm 11:30-32). Một triết lý đầy “chất”
thần học và rất đậm “chất” của thức giả Phaolô.
Chúa Giêsu đã từng bị người ta ghen ghét vì cách nói của Ngài
“chẳng giống ai” và luôn “gây sốc”. Một hôm, Đức Giêsu đang trên đường lui về
miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà Ca-na-an kêu lớn tiếng: “Lạy
Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở
lắm!” (Mt 15:22). Thế nhưng Ngài làm ngơ, không đáp lại chi cả. Thế
nhưng rồi Ngài lại xác định: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên
lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (Mt 15:24). Nghe nói mà “nóng gáy” ghê
đi chứ!
Mặc dù bị từ chối thẳng thừng như vậy, người phụ nữ đáng thương ấy
vẫn cố lấn đến để bái lạy Ngài và thưa: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt
15:25). Người gì mà lắm mồm, léo nhéo dai còn hơn đỉa đói! Thấy phụ nữ này coi
bộ “ngon lành” dữ nghen, thế nên Ngài còn nói “sốc” hơn: “Không nên lấy
bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15:26). Mèn ơi, chịu
gì nổi chứ! Ấy vậy mà bà ấy vẫn thản nhiên phân bua: “Thưa Ngài, đúng
thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Bấy giờ Đức Giêsu nhìn bà ấy, vừa cười vừa âu yếm nói: “Này bà, lòng
tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15:28). Từ giờ
đó, con gái bà được khỏi. [Cũng nên biết rằng chó là vật cưng, chứ chó không bị
coi thường như ở Việt Nam. Văn hóa của họ không như văn hóa Việt Nam].
Và đó chỉ là cách Chúa Giêsu “thử thách” để phụ nữ kia chứng tỏ
niềm tin của mình. Tuy nhiên, Ngài thử thách không phải là để “dò tìm” như
chúng ta, vì Ngài đã biết rõ cõi lòng ai sâu hay rộng thế nào, trái tim người
nào cứng hay mềm, nghĩa là Ngài không cần thử thách vì Ngài là Thiên Chúa, Ngài
thấu suốt mọi sự (x.Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2;
G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc
42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Ngài
muốn làm như vậy để cho mọi người biết chân giá trị của nỗi gian truân, của đức
tin, và của lòng kiên nhẫn, đồng thời Ngài cũng tạo “công trạng” cho chính người
chịu đựng sự thử thách.
Và như thế thì thử thách và đau khổ cũng là hồng ân, chứ không
chỉ những gì “xuôi chèo mát mái” như chúng ta tưởng. Tất nhiên chúng ta cũng phải
biết tạ ơn về loại hồng ân “khác người” như vậy. Vâng, “khác người” chứ không
“chết người” đâu!
Lạy Thiên Chúa nhân lành và giàu lòng thương xót, con chỉ là một
con chó nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất và nhơ nhớp nhất, xin thương xót dù con hoàn
toàn bất xứng. Dẫu con là kẻ vô duyên và bất tài, nhưng con luôn khao khát nên
giống Ngài, ngày đêm tín thác vào Ngài qua từng nhịp thở của đời con, xin cho
con được hưởng những vụn-bánh-yêu-thương thừa rơi xuống từ Bàn Tiệc Thương Xót
của Ngài. Con chân thành tha thiết cầu xin Cha, nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Đấng cứu độ chúng nhân. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét