TỎI VỚI SỨC KHỎE
Tháng 12 năm 1998, một cuộc
hội thảo kéo dài hai ngày rưỡi đã được tổ chức tại New Port Beach, California,
để thảo luận và trình bày kết quả nghiên cứu về công dụng của tỏi.
Hội thảo được Viện Ung
Thư Quốc Gia Hoa Kỳ và Đại Học Pennsylvania bảo trợ, với sự tham dự của trên
hai trăm khoa học gia, chuyên viên y tế, dinh dưỡng đến từ 12 quốc gia trên thế
giới.
Kết luận của hội thảo là
các cuộc nghiên cứu trong nhiều năm qua đã xác định những ích lợi của tỏi đối với
sức khỏe con người.
Kinh nghiệm chữa bệnh bằng tỏi.
Chữ viết đầu tiên của dân
Sanskrit cách đây 5000 năm đã nhắc đến TỎI nhiều lần.
Trong mộ cổ Ai Cập 6000
năm về trước có những củ tỏi khô nằm ướp trong nắm xương. Sách Y học Ai Cập
trên 3000 năm về trước có ghi hai mươi bài thuốc tỏi để trị một số bệnh như đau
bụng, đau nhức khớp xương, nhiễm độc, cơ thể suy nhược...
Công nhân xây đắp Kim Tự Tháp được cung cấp thực
phẩm có tỏi để tăng cường sức lao động. Những giác đấu Hi Lạp, binh sĩ La Mã
cũng được cho ăn tỏi để chiến đấu can trường, dũng cảm hơn.
Trong các cuộc hải hành,
dân Virking đều mang tỏi theo làm lương thực và để trị bệnh khi cần đến.
Tỏi đã được các vị thầy thuốc xưa
kia ca ngợi như một dược thảo có giá trị. Ông tổ nền y học tây phương
Hippocrates (460-377 trước Cơng nguyn) đ coi tỏi là môn thuốc tốt để trị các bệnh
nhiễm độc, bệnh viêm, bệnh bao tử, và loại trừ nước dư trong cơ thể.
Galen
(129 – 199), một trong những danh y nổi tiếng sau
Hippocrtes, đã ca tụng tỏi như môn thuốc dân tộc trị được nhiều bệnh.
Theo Pedonius Dioscorides
(40 – 90), một danh y Hy Lạp, thì tỏi làm giọng nói trong trẻo, làm bớt ho, làm
thông tắc nghẽn ở mạch máu, làm lợi tiểu, bớt đau răng, chữa bệnh ngoài da, và
chữa cả hói tóc nữa.
Vào thế kỷ 16, Alfred
Franklin nói với dân chúng thành phố Paris là nếu họ ăn tỏi tươi với bơ vào
tháng Năm thì họ sẽ được khỏe mạnh trong những tháng còn lại.
Trong thế chiến thứ nhất, người Nga
đã dùng tỏi để trị bệnh nhiễm vi trùng. Họ gọi tỏi là “thuốc kháng sinh Nga Sô”.
Các bác sĩ Anh cũng đ biết dùng tỏi để trị vết thương làm độc ở chiến trường.
Khi có các dịch cúm vào đầu thế kỷ 20, nhiều
quốc gia trên thế giới, kể cả Hoa Kỳ, đã dùng tỏi như một phương tiện để chống
lại sự hoành hành của bệnh.
Sách xưa có ghi lại câu
chuyện về bốn tên trộm lừng danh ở thành phố Marseille: trong vụ dịch hạch kinh
khủng ở thành phố này, có bốn tên trộm vẫn ngang nhiên vào nhà các người bị bệnh
để trộm của mà không bị lây bệnh. Khi bị bắt, chính quyền hứa sẽ tha tội nếu họ
nói bí quyết không lây bệnh. Bốn chú đạo trích khai là suốt thời gian dịch hạch,
họ ăn rất nhiều tỏi tươi, do đó họ không bị bệnh.
Vào thời Trung Cổ, khi đi
vào những vùng nhiễm độc, các thầy thuốc đều mang nhiều nhánh tỏi để phân phát
cho dân chúng cũng như để ngăn chặn hơi độc xâm nhập vào mũi.
Các
triết gia cũng có nhiều nhận xét về giá trị của tỏi.
Celsius, vào thế kỷ I đã khuyên dùng tỏi để trị
nóng sốt và bệnh đường ruột.
Virgil (70 – 19) thấy tỏi
làm tăng sức lực của nông dân.
Aristophanes (448 – 385
trước Công nguyên) thì nhắc nhở lực sĩ, chiến sĩ ăn tỏi trước khi xuất trận để
chiến đấu cang cường hơn.
Dân Nga xưa kia ngâm tỏi
với rượu vodka, để lâu hai tuần rồi uống và tin là sẽ sống lâu.
Dân Ukraine uống nước
chanh ngâm tỏi để làm tăng sức lực, làm người trẻ ra.
Dân Da Đỏ bắt chước đoàn
thám hiểm Tây Ban Nha, dùng tỏi để trị các bệnh khó tiêu, đau bụng, đau tai và
họ rất ít bị bệnh yết hầu vì mùi tỏi làm cuống phổi mở rộng, hô hấp sể dàng.
Người Mỹ xưa kia chữa bệnh
tim phổi bằng cách đắp tỏi giã nhỏ lên chân và họ giải thích là như vậy tỏi sẽ
hút hết chất độc xuống để đưa ra ngoài. Tổng Thống Benjamin Franklin thích ăn
súp nấu với tỏi, còn binh sĩ của Tổng Thống George Washington thì được cho thêm
tỏi trong khẩu phần.
Vào đầu thế kỷ trước, bệnh lao rất phổ biến và
khó trị vì chưa có thuốc kháng sinh. Các bác sĩ bèn chữa bằng tỏi và thấy là rất
công hiệu để diệt vi trùng lao. Sau đó một thời gian, nước Mỹ bị dịch cúm và bệnh
tinh hồng nhiệt, dân chúng bèn đốt tỏi trong nhà và hơi khói tỏi che trở nhiều
người khỏi bị bệnh. Nhiều người còn nhai tỏi để ngửa bệnh cúm.
Năm 1941, bác sĩ Emil
Weiss ở Chicago làm một cuộc thử nghiệm trị bệnh bằng tỏi cho 22 người mang các
bệnh khác nhau như đau bụng, nhức đầu, táo bón. Kết quả là những người này hết
bệnh.
Về niềm tin dị đoan, tỏi
đã được dùng là vũ khí để trừ tà ma, quỷ quái. Dân Âu châu xưa rất sợ ma cà rồng
hút máu và để xua đuổi, mỗi nhà đều treo nhiều nhánh tỏi ở trước cửa. Văn tự Ấn
Độ giáo từ nhiều ngàn năm trước có ví một củ tỏi như một tráng sĩ diệt trừ yêu
quái.
Dân nài ngựa cheo vài nhánh tỏi vào
cương để ngựa phi mau hơn. Nằm mơ thấy tỏi là điềm lành.
Trong các cộng đồng Do
Thái xưa kia, vài nhánh tỏi được trang điểm vào áo cưới cô dâu với niềm tin là
cuộc hôn nhân sẽ muôn vàn hạnh phúc.
Dân Ai Cập so sánh hương
vị cay hôi của tỏi với những thăng trầm của cuộc đời.
Các tu sĩ nói với con
chiên là khi họ cầm vài nhánh tỏi trên tay tức là đang cầm mọi phức tạp của cuộc
đời. Và khi tuyên thệ, họ đặt tỏi trên bàn tay hay trên bàn thờ.
Bên Việt Nam ta, các cụ
cheo tỏi trước cửa buồng đàn bà mang bầu để trẻ sinh ra được mẹ tròn con vuông,
khỏe mạnh
Đông Y việt Nam ta ghi nhận công dụng trị bệnh
của tỏi như sau: “tỏi có vị cay, tính ôn, hơi độc nằm trong hai kinh can và vị.
Tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, chữa bệnh lỵ ra máu, tiêu nhọt, hạch
ở phổi, tiêu đàm, chữa đầy chướng bụng, đại tiểu tiện khó khăn. Người âm nhu, nội
thiệt, có thai, đậu chẩn, đau mắt không nên dùng.
Kết qủa nghiên cứu công dụng
tỏi trong trị bệnh
Qua nhiều nghiên cứu khoa học và
qua kinh nghiệm xử dụng của dân chúng, thì tỏi không những là một thực phẩm
ngon mà còn có nhiều công dụng trị bệnh.
Nnăm 1951, hai nhà hóa học Thụy sĩ
Arthur Stoll và Ewald Seebeck đã tìm ra hóa chất chính của tỏi là chất Alliin
và menAllinase. Hai chất này được giữ riêng rẽ trong tế bào tỏi
1-Tỏi
và cholesterol.
Khi quan sát dân chúng ở một số
vùng ăn nhiều tỏi, các nhà nghiên cứu thấy họ rất ít bị các bệnh về tim mạch, mặc
dù họ ăn nhiều thịt động vật và uống nhiều rượu vang. Có người cho là do ảnh hưởng của rượu vang,
nhưng các bác sĩ ở địa phương thì cho là nhờ uống rượu và ăn nhiều tỏi.
Sự kiện này thúc đẩy các
chuyên viên của Đại Học Western Ontario, Canada, để tâm nghiên cứu và họ kết luận
rằng một dân tộc càng ăn nhiều tỏi thì bệnh tim mạch càng ít. Bằng chứng là dân
Triều Tiên ăn nhiều tỏi và họ cũng ít bị bênh tim.
Nhiều khoa học gia bèn
nghiên cứu tương quan giữa tỏi và bênh tim ở súc vật trong phòng thí nghiệm. Họ
đều thấy là tỏi làm chậm sự biến hóa của chất béo trong gan, khiến gan tiết ra
nhiều mật, đồng thời cũng lấy bớt mỡ từ thành động mạch.
Các bác sĩ H.C. Bansal và
Arun Bordia ở Ấn Độ nhận thấy khi ăn bơ với tỏi, cholesterol trong máu đã không
lên cao mà còn giảm xuống.
Năm 1990, nghiên cứu do bác sĩ F.H. Mader ở Đức
cho hay, nếu mỗi ngày ăn vài nhánh tỏi thì cholesterol sẽ giảm xuống tới 15%.
Một nghiên cứu tương tự ở Đại học Tulane, New
Orleans do bác sĩ A. K. Jain thực hiện năm 1993 cho thấy người cócholesterol
cao, khi dùng tỏi một thời gian, thì cholesterol giảm xuống được 6%. Đó là một
sự giảm đáng kể.
Bác sĩ Benjamin Lau, thuộc Đại Học Loma Linda,
California cho biết là tỏi giúp chuyển cholesterol xấu LDL thành cholesterol
lành HDL. Còn bác sĩ Myung Chi của Đại Học Lincoln ở Nebraska chứng minh là tỏi
làm hạ cholesterol và đường trong máu.
Một câu hỏi được nêu lên
là tỏi có làm giảm cholesterol ở người có mức độ trung bình không? Các nhà
nghiên cứu cho là tỏi có một vài ảnh hưởng, nhưng nếu cholesterol cao thì tác dụng
của tỏi tốt hơn. Có bác sĩ còn cho là tỏi công hiệu hơn một vài âu dược hiện
đang được dùng để chữa cholesterol cao trong máu.
Do hạ thấp cholesterol trong máu,
tỏi có thể ngăn ngừa nguy cơ một số bệnh tim. Đã có nhiều bằng chứng rằng
cholesterol trong máu lên cao là nguy cơ đưa tới các bệnh vữa xơ động mạch và dột
quỵ.
2-Tỏi và sự đông máu
Tỏi có tác dụng ngăn sự đóng máu cục,
một nguy cơ của kích tim và tai biến động mạch não.
Máu cục gây ra do sự dính chùm của tiểu cầu mỗi
khi có dấu hiệu cơ thể bị thương để ngăn ngừa sự xuất huyết.
Trong tỏi có chất Ajoene
được bác sĩ Eric Block, Đại học Nữu Ước, khám phá ra. Theo ông ta, chất này có
công hiệu như aspirin trong việc làm giảm sự đóng cục của máu, lại rẻ tiền mà
ít tác dụng phụ không muốn. Điều này cũng phù hợp với nhận xét của bác sĩ I.S.
Menon là ở miền nam nước Pháp, khi ngựa bị máu đóng cục ở chân thì nông gia đều
chữa khỏi bằng cách cho ăn nhiều tỏi và hành.
Bệnh viện Hải quân Hoa Kỳ
trong trại Pendleton, California, cũng công bố là tỏi có chất ngừa đông máu do
đó có thể làm máu lỏng và ngăn ngừa tai biến động mạch não, kích tim vì máu cục.
Ngay cả ông tổ của nền y
học cổ truyền Ấn Độ Charaka vào thế kỷ thứ 2 cũng ghi nhận là “tỏi giúp máu lưu
thông dễ dàng, làm tim khỏe mạnh hơn và làm con người sống lâu. Chỉ vì mùi khó
chịu của nó chứ không thì tỏi sẽ đắt hơn vàng”.
Các thầy thuốc xưa kia cũng nói là tỏi làm máu
loãng hơn. Tác dụng này diễn ra rất mau, chỉ vài giờ sau khi dùng tỏi. Chưa có
trường hợp nào trong đó ăn nhiều tỏi đưa đến máu loãng rồi dễ xuất huyết, vì tỏi
chỉ làm máu loãng tới mức bình thường thôi.
3-Tỏi và cao huyết áp
Tỏi được dùng để trị bệnh cao huyết
áp ở Trung Hoa từ nhiều thế kỷ trước đây. Tại Nhật Bản, giới chức y tế chính thức
thừa nhận tỏi là thuốc trị huyết áp cao.
Năm 1948, bác sĩ F.G.
Piotrowski ở Geneve làm thế giới ngạc nhiên khi ông tiết lộ kết quả tốt đẹp khi
dùng tỏi để trị cao huyết áp. Theo ông, tỏi làm giãn mở những mạch máu bị nghẹt
hay bị co rút, nhờ đó máu lưu thông dễ dàng và áp lực giảm. Các nghiên cứu ở Ấn
Độ, Gia Nã Đại, Đức cũng đưa đến kết quả tương tự.
Nhà sinh học V. Petkov thực
hiện nhiều nghiên cứu ở Bulgarie cho hay tỏi có thể hạ huyết áp tâm thu từ
20-30 độ, huyết áp tâm trương từ 10 tới 20 độ.
4-Tỏi và cúm
Trong các dịch cúm vào đầu thế kỷ
trước, dân chúng đã dũng tỏi để ngăn ngừa sự lan tràn của bệnh này. Y học dân
gian nhiều nước đã chữa cảm cúm bằng cách thoa tỏi tươi mới cắt vào bàn chân.
Trong dịch cúm ở Liên Xô cũ vào năm 1965, dân
Nga đã tiêu thụ thêm trên 500 tấn tỏi để ngừa cúm. Trước đó, vào năm 1950, một
bác sĩ người Đức đã công bố là tinh dầu tỏi có khả năng tiêu diệt một số vi
sinh có hại mà không làm mất những vi sinh vật lành trong cơ thể.
Bác sĩ Tarig Abdullah ở trung tâm nghiên cứu tại
Tampa, Florida, công bố năm 1987 là tỏi sống và tỏi chế biến đều làm tăng tính
miễn dịch của cơ thể với vi trùng, ngay cả HIV và làm giảm nguy cơ vài bệnh ung
thư. Cá nhân ông ta đã liên tục dùng mấy nhánh tỏi sống mỗi ngày từ năm 1973 và
chưa bao giờ bị cảm cúm.
Từ năm 1950, bác sĩ J.
Klosa bên Đức đã dùng tỏi để chữa lành những bệnh đau cuống họng, sổ mũi, ho lạnh.
Ông ta vừa cho bệnh nhân uống vừa ngửi tinh dầu tỏi. Theo ông ta, đó là nhờ chất
Alliin trong tỏi.
Trong bệnh cảm cúm, bệnh nhân thường
sưng cuống phổi, bị ho, sổ mũi. Bác sĩ Irvin Ziment, California, nhận thấy tỏi
có thể làm giảm những triệu chứng trên, làm bệnh nhân bớt ho, long đàm, thở dễ
dàng và không bị nghẹt mũi. Theo vị thầy thuốc này thì vị hăng cay của tỏi kích
thích bao tử tiết ra nhiều dịch vị chua; dịch vị này chuyển một tín hiệu lên phổi
khiến phổi tiết ra nhiều dung dịch lỏng làm long đờm và đưa ra khỏi phổi.
Các bác sĩ bên Ba Lan trước đây dùng tỏi để trị
bênh suyễn và viêm phổi ở trẻ em
5-Tỏi và ung thư
Hiện nay đang có nhiều nghiên cứu
coi xem tỏi có công dụng trị ung thư ở người như kết quả nhận thấy ở động vật
trong phòng thí nghiệm hay không.
Từ năm 1952, các khoa học
gia Nga Sô Viết đã thành công trong việc ngăn chặn sự phát triển của một vài tế
bào ung bướu ở chuột.
Thí nghiệm ở Nhật Bản cho
hay tỏi có thể làm chậm sự tăng trưởng tế bào ung thư vú ở loài chuột và tỏi có
chất oxy hóa rất mạnh để ngăn chặn sự phá tế bào do các gốc tự do gây ra.
Tại viện Ung Thư M.D.
Anderson, Houston, các bác sĩ đã cứu một con chuột khỏi bị ung thư ruột già bằng
cách cho uống chất Sulfur trong tỏi. Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ đang đặt trọng
tâm vào việc nghiên cứu khả năng trị bệnh ung thư của hóa chất sulfur này.
Nghiên cứ tại Trung tâm Y khoa Sloan Kettering
cho hay nước chiết của tỏi có thể chăn sự tăng trưởng tế bào ung thư nhiếp hộ
tuyến.
6-Tỏi dùng làm thuốc kháng sinh
Từ lâu, dân chúng tại nhiều quốc
gia trên thế giới đã dùng tỏi để chữa một số bệnh gây ra do vi khuẩn như kiết lỵ,
bệnh tiêu chẩy, bệnh thương hàn, viêm cuống họng, mụn nhọt ngoài da, thối tai
và tỏi được gọi là thuốc kháng sinh dân tộc.
Trong hai thế chiến, tỏi
được dùng để chữa vết thương cho binh sĩ tại chiến trường. Người ta cũng dùng tỏi
để trị vết thương do côn trùng, rắn cắn. Nông dân, thợ săn đều mang theo tỏi
phong hờ khi bị các sinh vật này cắn thì tự chữa.
Năm 1858, nhà bác học
Pháp Louis Pasteur (1822 – 1895) đã chứng minh được công dụng diệt vi khuẩn của
tỏi.
Năm 1944, nhà hóa học
Chester J. Cavallito, làm việc cho công ty hóa chất Winthrop ở Hoa Kỳ, đã phân
tích được hóa chất chính trong tỏi có công dụng như thuốc kháng sinh. Đó là chất
Allicin, chỉ có trong tỏi chưa nấu hay chế biến. Kháng sinh này mạnh bằng 1/5
thuốc Penicilin và 1/10 thuốc Tetracycline, có tác dụng trên nhiều loại vi khuẩn,
xua đuổi hoặc tiêu diệt nhiều sâu bọ, ký sinh trùng, nấm độc và vài loại virus.
Theo nhiều nghiên cứu,
allicin có tác dụng ức chế sinh trưởng vi khuẩn nhiều hơn là diệt chúng. Nói một
cách khác, chất này không giết vi khuẩn đã có sẵn mà ngăn chặn sự sinh sôi,
tăng trưởng và như vậy có thể ngừa bệnh, nâng cao tính miễn dịch, làm bệnh mau
lành.
Nghiên cứu tại Brazil năm
1982 đã chứng minh là nước tinh chất của tỏi có thể chữa được nhiều bệnh nhiễm
độc bao tử, do thức ăn có lẫn vi khuẩn, nhất là loại Salmonella. Các nghiên cứu
tại Đại Học California ở Davis cũng đưa đến kết luận tương tự. Ngoài ra, tỏi
cũng được dùng rất công hiệu để trị bệnh sán lãi, giun kim, các bệnh nấm ngoài
da...
Một nhà nghiên cứu đã hào hứng tuyên bố rằng “tỏi
có tác dụng rộng rãi hơn bất cứ loại kháng sinh nào hiện có. Nó có thể diệt vi
trùng, nấm độc,siêu vi trùng, ký sinh trùng lại rẻ tiền hơn, an toàn hơn vì
không có tác dụng phụ và không gây ra quen thuốc ở vi trùng”.
Giáo sư Arthur Vitaaen (1895-1973), người đoạt
giải Nobel năm 1945, cũng đồng ý như vậy.
Do đó ta không lấy làm lạ
là trong Thế chiến thứ nhất, các bác sĩ Anh quốc đã dùng tỏi để chữa vết thương
làm độc.
Thực tế ra, tỏi được dùng
với những nhiễm độc nhẹ, không nguy hiểm tới tính mạng. Còn các trường hợp nhiễm
trùng cấp tính và trầm trọng thì không thể dựa vào các loại “kháng sinh thực vật”
này
7-Tỏi với tuổi
thọ
Theo dân chúng vùng Ukraine, ngâm nửa
kí tỏi cắt hay giã nhỏ bỏ vào nước vắt của 25 quả chanh, để qua đêm rồi mỗi
ngày uống một thìa pha với nước lạnh, trong hai tuần sẽ thấy trẻ khỏe ra. Các
nhà văn Ukraine nói thêm rằng uống thường
xuyên rượu tỏi thì con người sẽ cảm thấy trẻ trung.
Nhiều vị cao niên Việt
Nam cũng thường uống rượu ngâm với tỏi, tin tưởng là sẽ được cải lão hoàn đồng,
kéo dài tuổi thọ. Họ nghiền khoảng 200 gr tỏi tươi, ngâm trong 300gr rượu mạnh,
để vào nơi mát trong hai tuần rồi uống trước mỗi bữa ăn chừng năm tới mười giọt
.
Ở vùng Balkan, số người
thọ trên 100 tuổi rất cao và được giải thích là họ nhai nhiều nhánh tỏi mỗi
ngày.
Ngoài ra, Tỏi còn một số công
dụng khác như:
Nhà thiên nhiên học La Mã Pliny viết rằng tỏi
mà đưa cay với rượu vang thì con người làm tình rất điệu nghệ. Do đó dân chúng
La Mã ăn nhiều tỏi và coi tỏi là thuốc kích thích tình dục.
Nghiên cứu mới đây ở loài
chuột cho thấy tỏi có thể có tác dụng tốt trên các chức năng của não bộ, tăng
trí nhớ và có thể nâng cao tuổi thọ.
Theo bác sĩ Paavo Airola, một nhà chuyên môn
dinh dưỡng tại Phoenix, Arizona, tỏi với các hóa chất sulfur của nó, có thể chữa
được bệnh mụn trứng cá, bệnh khí thũng phổi làm khó thở, khó tiêu bao tử, táo
bón, cảm lạnh.
Các nghiên cứu của bác sĩ D Sooranna và I Das
bên Luân đôn cho hay dùng tỏi khi mang thai có thể làm giảm nguy cơ tiền sản giật
, ( cao huyết áp và đạm chất trong nước tiểu ) và làm trẻ chậm lớn được mau lên
cân hơn.
Và cuối cùng là một nghiên cứu ở Monnel
Chemical Senses Center, Philadelphia, cho biết là khi mẹ ăn tỏi, con sẽ bú sữa
mẹ lâu hơn và nhiều hơn vì tỏi làm tăng khẩu vị của em bé.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét