“Ngài chơi với ai mà không biết một áng văn nào của nước Việt?”
17/10/ 2018-gdnarazet
Câu chuyện thể hiện niềm
kiêu hãnh của người Việt đã được Giáo sư Trần Văn Khê kể lại nhiều lần cho các
học trò của mình, và cũng được ông ghi lại trong cuốn hồi ký, kể về cuộc tranh
luận bên lề buổi sinh hoạt của Hội Truyền bá Tanka Nhật Bản tại Paris vào năm
1964.
Tham dự buổi sinh hoạt
này hầu hết là người Nhật và Pháp, duy chỉ có Giáo sư Trần văn Khê là người Việt.
Diễn giả là một cựu Đề đốc Thủy sư người Pháp. Ông khởi đầu buổi nói chuyện như
thế này:
“Thưa quý vị, tôi là Thủy
sư đề đốc, đã sống ở Việt Nam 20 năm mà không thấy một áng văn nào đáng kể.
Nhưng khi sang nước Nhật, chỉ trong vòng một, hai năm mà tôi đã thấy cả một rừng
văn học. Và trong khu rừng ấy, trong đó Tanka là một đóa hoa tuyệt đẹp. Trong
thơ Tanka, chỉ cần nói một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm.
Chỉ 31 âm tiết mà nói bao nhiêu chuyện sâu sắc, đậm đà. Nội hai điều đó thôi đã
thấy các nước khác không dễ có được.”
Lời phát biểu đã chạm đến
lòng tự trọng dân tộc của Giáo sư Trần Văn Khê. Chính vì thế, khi buổi nói chuyện
bước vào phần trao đổi, Giáo sư đã đứng dậy xin phép phát biểu:
“Tôi không phải là người
nghiên cứu văn học, tôi là Giáo sư nghiên cứu âm nhạc, là thành viên hội đồng
quốc tế âm nhạc của UNESCO. Trong lời mở đầu phần nói chuyện, ông Thủy sư Đề đốc
nói rằng đã ở Việt Nam hai mươi năm mà không thấy áng văn nào đáng kể. Tôi là
người Việt, khi nghe câu đó tôi đã rất ngạc nhiên. Thưa ngài, chẳng biết khi
ngài qua nước Việt, ngài chơi với ai mà chẳng biết một áng văn nào của Việt
Nam?
Có lẽ ngài chỉ chơi với
những người quan tâm đến chuyện ăn uống, chơi bời, hút xách… Phải chi ngài chơi
với Giáo sư Emile Gaspardone thì ngài sẽ biết đến một thư mục gồm trên 1.500
sách báo về văn chương Việt Nam, in trên Tạp chí Viễn Đông bác cổ của Pháp số 1
năm 1934. Hay nếu ngài gặp ông Maurice Durand thì ngài sẽ có dịp đọc qua hàng
ngàn câu ca dao Việt Nam mà ông Durand đã cất công sưu tập… Ông còn hiểu biết về
nghệ thuật chầu văn, ông còn xuất bản sách ghi lại các sinh hoạt văn hóa của
người Việt Nam. Nếu ngài làm bạn với những người như thế, ngài sẽ biết rằng nước
tôi không chỉ có một, mà có đến hàng ngàn áng văn kiệt tác.
Tôi không biết ngài đối xử
với người Việt Nam thế nào, nhưng người nước tôi thường rất hiếu khách, sẵn
sàng nói cái hay trong văn hóa của mình cho người khác nghe. Nhưng người Việt
chúng tôi cũng ‘chọn mặt gửi vàng’, với những người phách lối có khi chúng tôi
không tiếp chuyện. Việc ngài không biết về áng văn nào của Việt Nam cho thấy
ngài giao du với những người Pháp như thế nào, ngài đối xử với người Việt ra sao.
Tôi rất tiếc vì điều đó. Vậy mà ông còn dùng đại ngôn trong lời mở đầu”.
Rồi để so sánh với Tanka,
Giáo sư đưa ra những câu thơ như: “Núi cao chi lắm núi ơi; Núi che mặt trời,
không thấy người yêu” hay “Đêm qua mận mới hỏi đào; Vườn hồng đã có ai vào hay
chưa” để đối chiếu: tức là cũng dùng núi non, hoa lá để nói thay tâm sự của
mình.
Còn về số lượng âm tiết,
Giáo sư kể lại câu chuyện về Mạc Đĩnh Chi thời nhà Trần đi sứ sang nhà Nguyên,
gặp lúc bà phi của vua Nguyên vừa từ trần. Nhà Nguyên muốn thử tài sứ giả nước
Việt nên mời đọc điếu văn. Mở bài điếu văn ra chỉ có 4 chữ “nhất”. Mạc Đĩnh Chi
không hốt hoảng mà ứng tác đọc liền:
“Thanh thiên nhất đóa vân
Hồng lô nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chi hoa
Dao trì nhất phiến nguyệt
Y! Vân tán, tuyết tiêu,
hoa tàn, nguyệt khuyết!”
Dịch nghĩa là:
“Một đám mây giữa trời
xanh
Một bông tuyết trong lò lửa
Một bông hoa giữa vườn
thượng uyển
Một vầng trăng trên mặt
nước ao
Than ôi! Mây tán, tuyết
tan, hoa tàn, trăng khuyết!”
Tất cả chỉ 29 âm chứ
không phải 31 âm để nói việc người vừa mất đẹp và cao quý như thế nào.
Khi Giáo sư Trần Văn Khê
dịch và giải nghĩa những câu thơ này thì khán giả vỗ tay nhiệt liệt. Ông thủy
sư đề đốc đỏ mặt: “Tôi chỉ biết ông là một nhà âm nhạc nhưng khi nghe ông dẫn
giải, tôi biết mình đã sai khi vô tình làm tổn thương giá trị văn chương của
dân tộc Việt Nam, tôi xin thành thật xin lỗi ông và xin lỗi cả dân tộc Việt
Nam.”
Kết thúc buổi nói chuyện,
ông Thủy sư lại đến gặp riêng Giáo sư và ngỏ ý mời ông đến nhà dùng cơm để được
nghe nhiều hơn về văn hóa Việt Nam. Giáo sư tế nhị từ chối, còn nói người Việt
không mạo muội đến dùng cơm ở nhà người lạ. Vị Thủy sư Đề đốc nói: “Vậy là ông
chưa tha thứ cho tôi”. Giáo sư đáp lời: “Có một câu mà tôi không thể dùng tiếng
Pháp mà phải dùng tiếng Anh. Đó là: I forgive, but I cannot yet forget (Tạm dịch:
Tôi tha thứ, nhưng tôi chưa thể quên)”.
Câu chuyện nhiều cảm hứng
này cho chúng ta thấy một điều rằng, chỉ những người am hiểu văn hóa truyền thống
mới có thể cứu vãn danh dự cho đất nước, chỉ những người không lãng quên những
giá trị cổ xưa mới có thể gìn giữ tôn nghiêm của một dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét