OMEGA-3 ACID BÉO VÀ SỨC KHỎE
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Ngày nay, rất nhiều người
lưu tâm tới việc giảm chất béo trong thực phẩm vì e ngại một số bệnh gây ra do
tiêu thụ quá nhiều chất dinh dưỡng này.
Nhưng chất béo rất cần
thiết cho cơ thể và cũng có thứ tốt thứ xấu. Thứ xấu, ta tiết giảm mà thứ tốt
ta có thể dùng thêm một chút. Một trong những thứ tốt đó là chất béo được biết
tới qua tên omega - 3 Fatty acid.
Kết quả nhiều quan sát thực tế và nghiên cứu
khoa học cho thấy omega- 3 là một đồng minh của ta trong chiến dịch chống một số
bệnh tật như các bệnh tim mạch, ung thư vú, nhức đầu, đau khớp xương.
Đây là loại chất béo đa bất
bão hòa, thường thấy trong các loại cá và ở một vài loại thảo mộc như cây lanh
(Flax), cây gai dầu (hemp oil).
Omega - 3 thuộc nhóm acít
béo thiết yếu (essential fatty acid) vì cơ thể không tạo ra được mà lại rất cần
cho sự tăng trưởng và các chức năng của các tế bào.
Chất béo được chia ra làm
nhiều nhóm khác nhau.
Nhóm bão hòa, có nguồn gốc
từ động vật mà nếu dùng nhiều quá thì sẽ gây ra một số bệnh.
Loại bất bão hòa, tương đối tôt hơn cho sức khỏe.
Loại này lại chia ra hai nhóm nhỏ hơn là nhóm đơn bất bão hòa có trong thực vật
như dầu olive, canola, quả bơ, đậu phọng; và đa bất bão hòa với omega -6 trong
dầu ngô, dầu hạt safflower và omega -3 trong cá.
Đã có rất nhiều nghiên cứu
về công dụng của dầu cá đối với sức khỏe con người.
Kết quả do quan sát.
Dân Eskimo sống gần Bắc cực tiêu thụ rất nhiều
cá và các chất béo trong cá. Quan sát cho hay họ ít mắc bệnh tim mạch, nhiều
người có huyết áp bình thường, máu ít bị đóng cục. Ngoài ra họ cũng tránh được
một số bệnh khác như tiểu đường, viêm bao tử, đau nhức khớp xương, hen suyễn, bệnh
vẩy nến (psoriasis). Trong máu của họ, cholesterol LDL rất thấp mà cholesterol HDL
lại cao và máu cũng loãng hơn.
Sự kiện này cũng thấy ở
dân chài lưới bên Nhật mà thực phẩm chính là cá.
Trong phần ăn của người
dân Á Châu, cá chiếm tỷ lệ khá cao nên họ ít mắc bệnh tim hơn người phương Tây
dùng thịt động vật làm thực phẩm chính.
Tiến sĩ Daan Kromhout,
thuộc Đại Học Leiden bên Hà Lan, quan sát dân chúng ở thành phố Zutphen thấy rằng
tỷ lệ chết vì bệnh tim ở nhóm người ăn 30gr cá một ngày thấp hơn tới 50% so với
những người không ăn cá. Ông ta kết luận là chỉ cần ăn cá hai hay ba lần một tuần
là có thể ngăn ngừa được một số bệnh tim.
Kết quả do nghiên cứu
Công dụng của Omega-3 đã
và đang được khoa học nghiên cứu rộng rãi. Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy
Omega 3 có thể giảm thiểu sự đau nhức trong các chứng phong khớp xương, các chứng
đau đầu, giảm thiểu nguy cơ của ung thư vú và có thể làm nhẹ một vài biến chứng
của bệnh tiểu đường.
1- Dầu cá với cholesterol trong máu.
Các nghiên cứu ở Úc Châu
cho thấy dầu mỡ cá có thể làm hạ cholesterol trong máu, kể cả trường hợp tiêu
thụ thực phẩm có nhiều cholesterol.
Trong nghiên cứu này, 6
người được dùng 3 chế độ ăn uống khác nhau:
a-Chế độ bình thường với
lượng chất béo trung bình;
b-Chế độ ít cholesterol cộng
thêm 40 gr dầu mỡ cá;
c- Chế độ có cholesterol
cao với lòng đỏ trứng gà cộng thêm 40 gram mỡ cá.
Kết quả là, trong chế độ
1 và 2 nếu có cho thêm mỡ cá mỗi ngày thì lượng cholesterol trong máu giảm đáng
kể, còn trong chế độ số 3, lượng cholesterol trong máu không tăng bao nhiêu.
Ngoài ra, nghiên cứu này
cũng còn cho thấy là mỡ cá có thể làm giảm lượng triglycerides, một chất béo có
thể gây bệnh tim mạch.
2.
Dầu cá với bệnh tim mạch
Cá có chất béo đa bất bão
hòa Omega -3 có tác dụng ngăn ngừa tiểu huyết cầu dính với nhau do đó giúp mạch
máu khỏi bị nghẽn, tránh được nguy cơ nhồi máu cơ tim. Trong các nghiên cứu gần
đây, người ta còn thấy chất béo này có tác dụng ngăn các mảng vụn bám vào vách
mạch máu
Một nghiên cứu ở Tây Đức
của viện Tim Mạch Trung Ương cho thấy là ăn cá có khả năng hạ huyết áp.
Trong nghiên cứu này, một
nhóm người có áp huyết hơi cao được cho dùng 2 hộp cá thu mỗi ngày, liên tục
trong hai tuần. Sau đó họ được chuyển qua chế độ ăn 3 hộp cá mỗi tuần trong 8
tháng.
Kết quả là sau giai đoạn
đầu, mức cholesterol, triglycerides, huyết áp của họ giảm một cách đáng kể, đồng
thời lượng HDL tốt lại tăng. Tới giai đoạn hai, khi khẩu phần cá bị cắt giảm
thì cholesterol và triglycerides của họ trở lại mức trước khi họ ăn cá, ngoại
trừ huyết áp vẫn ở mức thấp. Lý do có thể là dầu cá làm giãn thành động mạch,
tăng phế thải nước và muối natri qua nước tiểu, do đó huyết áp giảm.
Theo kết quả nghiên cứu của
Bác sĩ Frank Hu, Đại Học Y Tế Công Cộng Harvard, thì dầu cá có tác dụng chống
loạn nhịp tim ở động vật nên có thể giảm nguy cơ chết vì tim ngưng đập đột ngột.
Quan sát việc ăn uống ở trên 76,000 phụ nữ, ông ta thấy nhóm nào dùng nhiều
omega- 3 thì có ít nguy cơ bị cơn đột quỵ.
3-Dầu
cá và bệnh khớp xương
Bác sĩ chuyên môn bệnh
viêm xương khớp Joel M. Kremer ở đại học y khoa Albany, New York theo dõi một
nhóm 33 người có bệnh nhức khớp xương, uống
15 viên dầu mỡ cá mỗi ngày và một nhóm uống thuốc vờ (placebo). Sau 14 tuần lễ,
nhóm uống dầu mỡ cá ít bị nhức khớp xương và ít mệt mỏi hơn nhóm uống giả dược.
Theo bác sĩ Alfred D.
Steinberg thì omega- 3 của dầu cá có tác dụng chống viêm như chất
prostaglandin, giúp cho khớp bớt cứng và sưng
4-
Dầu cá và chứng nhức đầu
Tại Đại học Cincinnati,
các nhà nghiên cứu đã thành công trong việc dùng omega- 3 để làm giảm tần số xuất
hiện của chứng nhức nửa đầu cũng như làm cơn nhức đầu nhẹ hơn.
5-
Dầu cá và bệnh tiểu đường
Theo một báo cáo trong
Journal of Medicine của Hòa Lan năm 1986, dầu mỡ cá có khả năng tăng cường công
hiệu của insulin trong việc kiểm soát đường trong máu.
6-
Dầu cá và ung thư
Tiến sĩ Rashida A Karmali
của viện đại học Rutgers và trung tâm nghiên cứu ung thư Memorial
Sloan-Kettering đã nghiên cứu tác dụng của dầu mỡ cá đối với ung thư vú và nhiếp
hộ tuyến của chuột. Kết quả là dầu mỡ cá đã chận đứng sự phát triển của các khối
ung thư. Mặc dù đây chỉ là nghiên cứu ở chuột mà từ chuột tới con người còn là
một quãng đường dài, nhưng kết quả này cũng là một bước đầu đầy khích lệ.
Các cuộc nghiên cứu tương
tự ở trường y khoa của các Viện Đại Học Rochester và Cornell đều cùng có kết quả
như trên. Tiến sĩ Karmali kết luận “Kết quả nghiên cứu cho thấy là mỡ Omega 3
có những đặc tánh đáng được nghiên cứu và phát huy để nó có thể trở thành loại
thuốc ngừa chống vài loại ung thư”.
Theo công bố của tạp chí
Ung thư ở Anh quốc (British Journal of Cancer), khi dân chúng ăn nhiều thịt và
mỡ bão hòa đồng thời cũng dùng mỡ cá thì nguy cơ bị ung thư vú và ruột già giảm.
Kết quả nghiên cứu của trường
Đại học Michigan cho hay dầu mỡ cá làm ngưng sự tăng trưởng tế bào ung thư vú lấy
ở người rồi cấy vào chuột trong phòng thí nghiệm.
Tập san y học The Lancet
có đăng kết quả nghiên cứu về dinh dưỡng của một số người Thụy Điển. Nhóm người
mỗi ngày ăn một lượng mỡ cá vừa phải thì ít bị nguy cơ ung thư nhiếp tuyến hơn
nhóm người không ăn cá.
Giáo sư Hans Krokan thuộc
trung tâm nghiên cứu Unogen, Na Uy, cho hay omega - 3 có khả năng tiêu diệt một
số loại tế bào ung thư và trong tương lai dầu cá có thể được dùng để chữa ung
thư cùng với các phương pháp trị liệu căn bản khác.
Ngoài ra dầu cá có thể
làm giảm triệu chứng khó chịu khi có kinh kỳ, giảm tiêu chẩy và đau bụng ở bệnh
bị bệnh viêm ruột (bệnh Crohn), giảm cơn suyễn, bớt trầm cảm, tăng cường tính miễn
dịch của cơ thể, và rất cần thiết cho sự tăng trưởng bình thường của não bộ, nhất
là ở thai nhi và trẻ sơ sinh.
Dùng bao nhiêu cho vừa.
Chất béo omega - 3 có tự
nhiên ở nhiều loại cá nước lạnh như cá thu, cá hồi, cá trích, cá cơm, cá ngừ và trong một số thực vật như dầu canola, đậu
nành, hạt lành (flax seed)...
Để được hưởng những ích lợi
của dầu mỡ cá Omega 3, ta không cần phải tiêu thụ một lượng cá lớn như người
Eskimo.
Theo các cuộc nghiên cứu
kéo dài 20 năm ở Hòa Lan thì chỉ cần ăn cá 2 lần trong một tuần là đã được giảm
đến phân nửa các vụ tai biến về tim mạch so với người không ăn một chút cá nào.
Theo Giáo sư William E.
Connor của Viện Khoa học Sức Khỏe ở tiểu bang Oregon thì mỗi tuần chỉ cần ăn chừng
180 gr cá thì đã đủ để có được tác dunggphòng bệnh của Omega 3.
Theo Tổ chức Sức Khỏe ở
Canada và Cơ quan Dinh Dưỡng ở Anh thì chúng ta nên ăn khoảng 0,5% tổng số nhu
cầu năng lượng mỗi ngày dưới hình thức omega - 3 fatty acid.
Omega - 3 cũng được bán
trên thị trường dưới dạng viên mà theo nhiều người có kinh nghiệm thì dùng một
hoặc hai viên mỗi ngày là đủ. Ngoài ra, cần được sự hướng dẫn của bác sĩ để
phòng ngừa tác dụng phụ, dùng quá nhiều cũng như tương tác với các dược phẩm
khác. Sự an toàn , công hiệu, phân lượng của viên dầu cá chưa được kiểm chứng,
xác định và các nhà nghiên cứu đều khuyên là không nên thay thế cá trong thực
phẩm bằng dầu cá.
Dùng quá nhiều dầu cá, nhất
là loại viên dầu, có nguy cơ băng huyết trầm trọng vì tác dụng loãng máu của dầu;
nguy cơ khó chịu cơ quan tiêu hóa, thiếu hồng huyết cầu hoặc tai biến động mạch
não. Những ai đang uống thuốc aspirin hoặc thuốc chống đau nhức cũng nên cẩn thận
khi dùng dầu cá vì thuốc và dầu cá đều làm máu loãng. Bệnh nhân dùng thuốc suy
tim nhóm Digitalis cũng phải cẩn thận vì dầu cá có thể làm tăng tác dụng của
các thuốc này.
Cá càng lớn, lượng omega-
3 càng nhiều. Nhưng cẩn thận với cá sông lạch vì sợ bị ô nhiễm. Cá biển tương đối
an toàn hơn. Hóa chất độc thường đóng trong mỡ, nên dầu cá cô đặc có thể nhiễm
nhiều hóa chất này.
Nếu muốn có omega- 3 từ
thực vật, ta có thể ăn hạt cây bồ đào (butternut), hạt và dầu hồ đào (walnut),
walnut oil, dầu mầm lúa mì (wheat germ oil), dầu đậu nành, thực phẩm chế biến từ
đậu nành, rong biển (seaweed).
Cũng cần phân biệt dầu mỡ cá với dầu gan cá
như Dầu gan cá thu Cod-Liver oil, dầu gan cá Mập. Các dầu này được dùng trong
việc trị bệnh từ thuở xa xưa, khi sinh tố chưa được khám phá.
Ta còn nhớ, cách đây dăm
chục năm, con trẻ bên nhà được cho uống mỗi ngày một thìa dầu cá tanh muốn ói.
Khi đó ta chỉ biết là dầu gan cá rất bổ xương, làm cơ thể mau lớn.
Ngày nay ta biết là dầu
gan cá có nhiều sinh tố A và D và một ít sinh tố E. Trong 100 gr dầu cá có khoảng
85.000IU sinh tố A, 8500 IU sinh tố D và 20mg sinh tố E.
Dầu gan cá rất dễ bị hư
hao vì không khí, nên cần được đậy kín và cất nơi không có ánh sáng. Dầu gan cá
được bán dưới hình thức viên hoặc nước.
Chất béo omega -3 trong các loại cá
Thông thường cá biển có
nhiều Omega 3 hơn cá sông, đặc biệt những loại cá béo như cá mòi (sardine) cá
xô mông (salmon) cá thu (markerel).
Các loại tôm cua có 1 lượng cholesterol kèm
theo với lượng Omega 3, nhờ đó mà khi tiêu thụ thì tác hại của cholesterol có
thể bị kiềm chế.
Số lượng Omega - 3 Fatty Acid trong 120 g tôm cá:
Cá hồi (salmon): 3.6 g
Cá ngừ (tuna):2.6 g
Cá thu (Mackerel): 1.8 tới
2.6 g
Cá trích (Herring): 1.2-
2.7 g
Cá trout: 1.0 g
Cua: 0.6 g
Tôm: 0.5 g
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét