CON NGƯỜI:
CÓ HỌC - CÓ GIÁO DỤC
DƯỚI NHÃN QUAN KITÔ GIÁO
Tue,
01/10/2019 - Lm Hương Quất
Lời
phị hô: Bài viết này thuộc bài làm thời Chủng sinh trong mái
nhà Đại Chủng Viện.... Do đó bài viết còn nhiều thiếu sót... Một hạn chế khác-
bài viết còn dài, xem ra không phù hợp trong thế giới phẳng...
Mong Bạn đọc thông cảm,
chỉ giáo.
Nội
Dung chi tiết:
I.
Trên bình diện Nhân bản- xã hội:
1. Thế nào là con người có Học và con người có Giáo dục?
- Người có học: Thủ đắc
kiến thức, thiên về cái đầu
- Người có giáo dục: Con
người toàn diện hơn, biết sống phẩm giá cao cả của con người, thiên về cái tâm.
2. So sánh giá trị: ‘Chữ tâm kia bằng ba
chữ tài’
3. Tương quan biện chứng giữa ‘có học’ và ‘có giáo dục’:
có biện phân nhưng không thể có biệt lập trong
nhất thể người
II. Trên bình diện thần học (Nhãn quan Kitô giáo):
1.
Con người là gì? Được Thiên Chúa trực tiếp dựng nên từ bụi
dất, có Xác - Hồn.
2.
Phẩm giá của Trí tuệ và vai trò của Giáo dục: Phản ảnh con người
giống Hình ảnh Thiên Chúa.
- Trí tuệ có một phẩm giá
cao quý: Phản ảnh Trí tuệ của Thiên Chúa
- Vai trò giáo dục giúp
con người sa ngã hoàn thiện nhân cách. Giáo dục chính nghĩa- giáo dục toàn diện.
3.
Nền giáo dục Kitô giáo- nền giáo dục toàn diện hướng đến Đời
sống mới trong Đức Kitô- Giêsu:
– &
-
*
Dẫn nhập:
Con người một Hữu thể màu
nhiệm có tiềm năng tư duy vượt trội, có thể vươn tới thực tại Siêu hình và trên
hành trình tiến triển, lý trí hầu như không có điểm dừng; song đồng thời con
người cũng nhận ra chân tính của một thân phận yếu đuối, dễ nghiêng chiều theo
sự xấu, bởi đó luôn cần được giáo dục hòan thiện, giúp trí lực phát triển thuận
với nhân phẩm thăng tiến. Song thực tế, ‘cái đầu’ (lý trí) không phải lúc nào
cũng phục vụ tốt cho đời sống con người, nếu không muốn nói, nhiều lúc càng làm
đời sống nguy hiểm hơn.
Lý giải cho con người vừa
nhân linh vừa phàm tục ấy, Mạc khải Kinh Thánh cho biết: Con người được dựng
nên từ bụi đất giống Hình ảnh Thiên Chúa, nhưng đã bị Nguyên tội làm tổn
thương, mà hệ quả là làm tổn hại nặng nề các tương quan với Thiên Chúa, tha
nhân, vũ trụ và mẫu thuẫn ngay trong chính hữu thể mình (St 1-3). Con người đã
được ơn Cứu chuộc trong Đức Kitô, song vẫn có thể lạm dụng tự do làm điều sai
trái, trí năng vẫn có thể quay lại hủy diệt con người. Kitô giáo nhìn con người
trong nhất thể, do đó không ngừng giáo dục và kêu gọi giáo dục con người phát
triển tòan diện. Giáo dục tòan diện không chỉ nhắm nhắm tương quan nhân vị và
trên hết hướng đến tương quan Thiên Vị, nghĩa là tương quan Cứu cánh của đời
người. Để làm nổi bật nhãn quan thần học này, trước hết bài viết khởi đi từ cái
nhìn nhân bản- xã hộ
I. Trên bình diện Nhân bản- xã hội:
1.
Thế nào là con người có Học và con người có Giáo dục?
Người có học là người qua
học tập thủ đắc một số kiến thức nào đó, căn bản hoặc chuyên sâu, thường trở
thành một nhà khoa học, học giả hay chuyên gia. Hiện có các ngành khoa học cơ bản:
kiến thức về khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn xã hội. Hiểu theo nghĩa
trên thì ‘người có học’ đã thủ đắc một trình độ kiến thức bậc cao; thông thường
hiểu là người có học thức, có kiến thức, có học vị. Người có học thiên về cái đầu,
nặng về trí thức. Theo lẽ tự nhiên, ai cũng có thể trở thành người có học vì ai
cũng có trí năng.
Giáo dục cũng nhằm đến việc
cung cấp kiến thức dù không chuyên sâu nhưng giúp cuộc sống có tương quan tốt
hơn, ‘nên người’ hơn. Giáo dục nhắm đến đào tạo nhân bản, con người toàn diện.
Người có giáo dục là người ‘biết sống’, biết ứng nhân xử thế. Nhà nho gọi người
có Giáo dục là quân tử hay thành nhân, bình dân gọi là người có Đức. Như vậy,
người có giáo dục là có ‘cái tâm’. Mọi người phải có bổn phận nên người có giáo
dục.
2.
So sánh giá trị: Trí thức và đức hạnh đều quan trọng, đều
cần cho sự phát triển xã hội con người. Tuy nhiên, nếu phải cân đo, thì người
có giáo dục cần thiết hơn người có học. Đức cần hơn tài. Nguyễn Du đã từng khẳng
định: ‘chữ Tâm kia bằng ba chữ Tài”. Đối với Gandhy, điều đáng sợ nhất là người
trí thức độc ác. Thực tế cho thấy, người có Tài mà thiếu Đức nguy hiểm hơn người
người có Đức mà thiếu tài. Lý tưởng là biết hài hòa giữa Đức- Tài, trong đó Đức
làm nền tảng, Tài là động lực phát triển cho xã hội thăng tiến. Việc hài hoà Đức-
Tài là có thể, bởi tự chúng có tương quan biện chứng, hỗ trợ nhau chặt chẽ.
3.
Tương quan biện chứng giữa ‘có học’ và ‘có giáo dục’:
Con người, một nhất thể
nên tự chất ‘cái đầu’ và ‘cái tâm’ có tương quan biện chứng, bổ trợ nhau. Trí
thức khai mở, phát triển giúp ta suy tư về hiện hữu, khám phá vũ trụ nhờ đó biết
‘căn tính’ mình hơn. Càng biết mình thì đồng thời càng biết sống tương quan.
Trong đời sống xã hội, tương quan quan trọng và thiết thực là tương quan tha
nhân; Trái lại, người có giáo dục thực sự không thể không quan tâm đến việc
trao dồi kiến thức. Nhờ kiến thức, giúp ‘người có giáo dục’ phong phú hơn.
Lương tâm- trách nhiệm của một thành nhân không thể chấp nhận cho sự ươn lười,
thiếu cố gắng trong học tập khi mà có thể. Như vậy, tương quan biện chứng tự chất
giữa ‘có học’- ‘có giáo dục’ không chấp nhận lập trường duy tâm hay duy lý, hoặc
phiến diện.
Đối với hiền triết
Socrate (khoản 470-399 tr.cn), không có sự phân biệt, Trí thức và Đức hạnh là một.
Theo ông, biết thiện tức làm thiện, tri thức là đức hạnh. Khi đồng hoá tri thức-
đức hạnh, nhà hiền triết của chúng ta muốn nói, sở dĩ có cái ác, làm điều xấu
là do thiếu vắng tri thức, không ai làm điều xấu một cách có ý thức [1].
Quan niệm ‘đồng nhất’
trên có tính lý tưởng, thực tế thì không hẳn vậy. Người có học nhưng không đồng
thời là người có đức. Hitle, Stalin… là những người có tài nhưng đồng thời lại
là những điển hình nhất cho tội ác dã man ở thế kỷ XX, từng bị cả Nghị viện
Châu âu ra nghị quyết liệt vào tội ác chống nhân loại [2]. Thời cổ đại, thủ đô
Athene được coi là thủ đô triết học, văn minh, trí thức nhất thế giới, thế mà
triết gia Diogenes (sống thề kỷ IV tr.cn) lại thắp đuốc giữa ban ngày để đi tìm
người, bởi trong thành phố phồn vinh này ông chỉ toàn thấy ngợm. Nói đâu xa, hiện
nay nhân loại đang sống trong ‘nền văn minh sự chết’ (Đức Thánh cha Gioan
Phaolo II), đầy thấp thỏm lo sợ: chiến tranh, khủng bố…
Tại sao tri thức- đức hạnh
trong nhất thể vốn có tương quan biện chứng mật thiết lại có sự mâu thuẫn? Để
trả lời cho câu hỏi này ta cần phải biết con người là gì?
Đã có nhiều quan niệm về
con người tuỳ góc nhìn, hướng nghiên cứu, ý thức hệ… nhưng kết quả vẫn chưa có
một ‘định nghĩa’ đầy đủ [3]. Điều này cho thấy, hữu thể Con người là một thực tại
màu nhiệm, vừa rất cụ thể (vật lý tính), vừa có khả năng vượt trên chính mình
(siêu việt tính); vừa thao thức cuộc sống (hiện sinh tính), vừa khắc khoải
tương lai, khao khát bất tử. Nếu tri thức hay giáo dục chỉ dừng trên bình diện
nhân bản- xã hội tại thế, loại đi sự sống sau khi chết thì sẽ không bao giờ có
một nền giáo dục- tri thứa đích thực, trái lại còn hết nguy hiểm, mà hệ quả chỉ
là những luẩn quẩn bế tắc, mâu thuẫn nhau, sống bằng luật rừng (mạnh được yếu
thua) để sinh tồn. Kết quả: trí thức- đạo đức không có lối giao hoà, giải
thoát; xã hội nhân loại gây thêm hận thù, chia rẽ.
Bởi thể, để hiểu con người
đúng nghĩa nhất, để thấy được giá trị phẩm giá nhân vị có lý trí- ý chí, có tự
do, có lương tâm, để nền văn minh con người không sa lầy vào sự chết… thì không
thể thiếu chiều kích thần học, tức đặt con người trong tương quan với Thiên
Chúa, hiểu con người dưới ánh sáng mạc khải của Thiên Chúa.
II. Trên bình diện thần học:
1.
Con người là gì? Nhờ mạc khải ta biết được căn tính đích
thực của con người: Con người được Thiên Chúa dựng nên từ bụi đất theo hình ảnh
của Ngài (Imago Dei'), được trao quyền làm chủ vũ trụ trong tương quan nhân vị (St
1-2). Trong tiến trình tìm đạt hạnh phúc đích thực, phẩm giá cao quý của con
người hệ tại nơi ‘hình ảnh Thiên Chúa’. Con người giống Hình ảnh Thiên Chúa điều
đó lý giải tại sao con người có Lý trí- Ý chí, có Tự do, có khả năng biết Yêu
thương, khao khát Chân- Thiện- Mỹ… đạt đến tầm vóc vô biên. Trong các yếu tính thần
linh ấy, tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất của hình ảnh Thiên Chúa nơi con
người (x.MV 17). Cũng nhờ mạc khải ta biết con người đã sa ngã khi lạm dụng tự
do, muốn tự quyết đời mình ngoài Thiên Chúa. Nguyên tội (Tội lỗi) dẫu không phá
huỷ Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người song đã làm tổn thương nặng nề các Tương
quan vốn tốt đẹp: với Chúa- tha nhân- vũ trụ- chính mình. Nó làm con người trở
nên mong manh, yếu đuối, luôn phải đấu tranh với chính mình. Kitô giáo dưới ánh
sáng mạc khải luôn nhìn con người trong một nhất thể gồm Hồn- Xác, đồng thời
bác bỏ mọi quan niệm chia rẽ hay xem trọng, khinh thái quá giữa hồn- xác. Con
người thăng tiến là một con người quân bình- nhân vị thống nhất, phát triển hài
hoà.
2.
Phẩm giá của Trí tuệ và vai trò của Giáo dục.
Trí tuệ có một phẩm giá
cao quý vì được dự phần Ánh sáng Trí tuệ của Thiên Chúa. Nhớ có lý trí, thụ tạo
con người vượt trội vũ trụ vật chất, biết suy tư phản tỉnh, giúp khả năng làm
chủ, khám phá quản lý chúng. Trí tuệ con người luôn có nhu cầu vươn đến tầm cao
hơn, không ngừng tìm tòi cái mới, khai phá bí ẩn, thỏa khát chân- thiện- mỹ, tức
hướng về cội nguồn của chính nó là Thiên Chúa. Ý thức phẩm giá có nguồn cội
thiêng liêng ấy, Giáo hội luôn đề cao và trân trọng phát triển tri thức nhân loại.
Công đồng Vaticanô II quả quyết: Trí tuệ con người được kiện toàn trong hiểu biết
và nhờ hiểu biết lôi kéo, con người tìm kiếm và ái mộ những gì là chân- thiện-
mỹ, rồi từ thế giới hữu hình, con người có thể tới thế giới vô hình (MV 15).
Như vậy lý trí chân chính không những giúp đời sống con người thăng tiến trong
năng động- phong phú mà còn có thể hiểu biết- yêu mến Thiên Chúa như là Cứu
cánh của đời người.
Thông thường, khoa học
nhân văn coi nhận thức con người phát triển qua hai gia đoạn: cảm tính và lý
tính. Lý trí được coi như chiếc cầu giúp nhận thức cảm tính (cảm giác, tri
giác…) nhất thời, mau qua, cần trực tiếp với nhận thức lý tính (trí tuệ) và
không ngừng giúp con người lý tính phát triển khả năng tư duy [4]. Bây giờ, nhờ
mạc khải, ta biết thêm để hoàn thiện thống nhất con người không thể thiếu chiều
khích thần học (nhận thức thần học). Thần học không phải là thần luận như trong
các triết gia, tôn giáo tự nhiên là dùng lý trí tự nhiên suy tư về Thượng đế
(Thượng đế học) không cần phải có tương quan với Ngài, không đòi cần có Đức
tin; trái lại thần học dựa trên mạc khải của Thiên Chúa, có Đức tin soi dẫn nhằm
tìm hiểu, đào sâu thêm Đức tin. Người có thần học là con người có đứa tin, dùng
lý trí để đào sâu đức tin, để kiện toàn đời sống nhân đức (đối thần và nhân bản)
luôn đặt trong Tương quan với Thiên Chúa.
Chính nơi con người thần
học, con người không chỉ tìm được cội nguồn, cứu cánh của đời người, mà còn làm
động lực phát triển tư duy nhằm thăng tiến con người trong đời sống hiện sinh.
Tuy nhiên, như đã nói, tội lỗi làm con người trở nên yếu đuối, dễ hướng chiều sự
dữ nên Trí tuệ nói riêng, và con người nói chung luôn cần được giáo dục. Nhờ giáo
dục, phẩm giá trí tuệ được gọt rũa, nhào lặn trở nên tinh tuyền hơn, giúp ta biết
biện phân điều hay lẽ phải, tích cực nâng cao phẩm giá lương tâm, cũng như thấy
rõ hơn sự cao cả của tự do (x.MV 16-17).
Vai trò của giáo dục: Với
vai trò khai trí giúp con người nhận ra và sống đúng phẩm giá cao quý của mình,
giáo dục có vai trò vô cùng quan trọng (ngày nay càng khẩn cấp). Quyền được hưởng
một nền giáo dục xứng hợp là quyền căn bản của tất cả mọi người. Nền giáo dục xứng
hợp là nền giáo dục phát huy chân lý và Đức ái (x.GD. 0-1). Ý thức mình có nhiệm
vụ săn sóc toàn diện đời sống con người, kể cả đời sống trần tục, trong mức độ
liên hệ với lời mời gọi của Thiên Chúa, Giáo hội đã- đang và luôn tích cực vào
việc mở mang và phát huy nền giáo dục chân chính. Nhờ nền giáo dục xứng hợp mà
các nhân đức luân lý tự nhiên vốn tốt được tăng trưởng (CG 1839t).
Rõ ràng, qua giáo dục các
tính năng của một thụ tạo giống Hình ảnh Thiên Chúa được thể hiện, là đang sống
theo ý Chúa. Hẳn nhiên, không như kiến thức, đến một lúc nào đó (hay thủ đắc được
một trình độ nào đó) con người có quyền thôi học nhưng với giáo dục thì gắn bó
theo con người cho đến hơi thở cuối cùng, bởi không chỉ nó góp phần làm nên tư
cách- nhân đức và luôn cần hiện diện giúp ta ý thức sống tốt, sống ra người
hơn. Nhân đức ‘thủ đắc’ nhờ quá trình luyện tập thường xuyên, vẫn có khả năng
biến chất, bị mất, chính vì thế người có giáo dục đích thực là người ý thức tự
giáo dục cao.
Nhà thần học dòng Tên thời
Danh K. Rahner, coi người có giáo dục, tức những người tốt sống theo lẽ lương
tâm, theo chân lý phổ quát là ‘Kitô hữu vô danh’ (chưa được Phúc âm hoá nhưng vẫn
được công chính bởi ân sủng Đức Kitô) [5]. Tuy nhiên, sống theo tự nhiên trong
thân phận yếu đuối bởi tội chắc chắn còn nhiều hạn chế, nhất là trong một thế
giới tục hoá có thể dẫn đến những sai lầm trong hành động, do đó con người phải
cần đến mạc khải của Thiên Chúa (CG 2244). Nói cách khác, cần đến nền giáo dục
Kitô giáo.
3.
Nền giáo dục Kitô giáo- nền giáo dục toàn diện hướng đến đời sống mới:
Giáo dục Kitô giáo nhằm
phát triển toàn diện con người từ thân xác trí tuệ đến những khả năng tâm linh
dựa theo những chuẩn mực của lý trí và mạc khải, cũng như nhờ sự trợ giúp của
Ơn thánh, để chuẩn bị cho ta có thể một đời hạnh phúc và hữu ích trên trần gian
này, đồng thời hướng đến đời sống vĩnh cửu thiên đàng mai sau [6]. Bởi Con người
là Hồn- Xác hợp nhất, bất khả phân ly, nên nền giáo dục toàn diện không thể chấp
nhận lối giáo dục thiên lệnh (nặng về kiến thức, nhẹ về đạo đức hay ngược lại),
hoặc một nền giáo dục độc quyền, đầy ý thức hệ, không tôn trọng chân lý phổ
quát, trái với tự nhiên (x.GD 6) [7].
Không chỉ dừng lại ở nền
giáo dục đầy đủ nhằm đào tạo nên người hơn, giáo dục Kitô giáo như một con đường
của sự thánh hoá (CG.902). Đối với Kitô hữu, nền giáo dục chính đáng nhắm đến một
Đức tin trưởng thành, hướng đến đời sống mới trong Đức Kitô.
Quả thế, nơi con người
cũ, tội lỗi dẫu không phá huỷ bản tính tốt đẹp của tạo dựng nhưng không thể làm
con người tự hoàn thiện nếu không có ơn Chúa, không có mạc khải soi dẫn. Mà Ân
sủng- mạc khải của Thiên Chúa chính là Đức Kitô- Giêsu, là hình ảnh của Thiên
Chúa vô hình (Cl 1,15). Ngài mới là Con Người đích thực, là hình ảnh Thiên Chúa
đúng nghĩa mà thụ tạo giống Hình ảnh Thiên Chúa quy chiếu, nhờ Người và trong
Người được viên mãn. Thánh Phaolô nhìn Đức Kitô chính là Ađam mới đem lại sự sống,
ân sủng của Thiên Chúa, đối lại Ađam cũ bởi bất tuân, đem đến sự chết nhằm làm
nổi bật Ân sủng tình yêu nhưng không của Thiên Chúa trước tội lỗi (Rm 1,12-21;
1Cr 15,21t). Kitô hữu trong Ađam mới đã thực sự được tái sinh nhờ Đức tin khi
chịu phép Thánh Tẩy, đã thực sự có đời sống mới nhưng vẫn mang thân phận của
Ađam cũ - qua truyền sinh, nghĩa là ta vẫn mang trong mình bản tính với tất cả
những yếu đuối, tội lỗi. Trong đời sống mới nhờ sức mạnh Thánh Thần của Đức
Kitô, bổn phận của mỗi người Kitô hữu không ngừng ‘gột bỏ’ (thanh luyện) con
người cũ để mặc lấy con người mới là Chúa Giêsu (Ep 4,17-32; Cl 3,9t) [8].
Như thế, hướng đến Đời sống
mới trong Đức Kitô, giáo dục Kitô giáo muốn đưa con người đạt mức kiện toàn. Chỉ
trong Đức Kitô hình ảnh Thiên Chúa nơi con người mời đạt thành trọn vẹn, người
có học và người có giáo dục theo tự nhiên mới tìm được ý nghĩa- cứu cánh đức thức
của mình. Trong đời sống mới, đời người không chỉ tìm thấy sức sống, hạnh phúc
ý nghĩa ở đời này mà còn đảm bảo cho đời sống viên mãn mai sau. Hy vọng đời sống
đời sau càng thôi thức Kitô hữu cải thiện đời sống, sống hết mình với hiện
sinh, tích cực góp tay xây dựng một nền văn minh thẫm đẫm tính văn hoá sự sống,
nên hoà bình thịnh trị trong tương quan anh em có chung một người Cha.
Tóm lại: Trong nhãn quan Kitô
giáo, trí tuệ có phẩm giá cao đẹp phản ảnh hình ảnh Thiên Chúa nơi con người.
Người có học, là người góp phần triển nở sự khôn ngoan của Thiên Chúa nơi trí
tuệ con người. Bởi con người đã sa ngã, nên trí tuệ có nguy cơ mất phẩm giá nên
luôn cần được giáo dục để sống có nhân bản hơn. Người có giáo dục, trên bình diện
đầy đủ hơn, là người đã biết sống giá trị làm người. Nền giáo dục đích thức hay
người có giáo dục đúng nghĩa đồng thời là người quan tâm phát triển trí tuệ, bởi
hơn ai hết họ biết nhờ sự phát triển này ‘cái tâm’ của họ sẽ được triển nở cùng
với lý trí. Như thế người có học hay người có giáo dục là người đang thể hiện
hình ảnh Thiên Chúa đã được Ngài khắc ghi ngay từ thủa đầu tạo dựng, đặc thù
(có học) và toàn diện (có giáo dục).
Trong nhất thể, sự biện
phân người có học, người có giáo dục để thấy rõ hơn giá trị đặc thù chứ không
được biệt lập và không thể có việc tách rời. Nói theo ngôn ngữ triết học, ‘có
giáo dục’ đào luyện con người tăng tiến cái Là, làm nên bản thể người; ‘có học’
giúp con người phát triển cái Có, là những tuỳ thể, giúp bản thể phong phú, triển
vọng hơn. Nói chung, tất cả đều cần thiết giúp con phát triển, đều là ‘dung
môi’ cần thiết để con người đón nhận Đấng là Đường là Sự Thật và là Sự Sống (Ga
14,6).
* Thay lời kết:
Dưới nhãn quan Kitô giáo,
Con người là một tuyệt tác của Đấng Tạo Hoá khi Ngài trực tiếp tạo dựng con người
theo Hình ảnh của Mình, một hữu thế màu nhiệm, luôn mở với thao thức vô biên.
Công trình tạo dựng của
Thiên Chúa, kể cả con người đang trong tiến trình hoàn thiện. Con người và vũ
trụ vẫn đang lớn lên, kiện toàn trong sự Quan phòng của Thiên Chúa. Trong tiến
trình ấy, với tư cách làm chủ, lý trí- ý chí con người trong tình yêu liên vị
góp phần đắc lực đưa công trình Tạo dựng đạt đến điểm Omega [9]. Để làm được điều
đó, con người không chỉ là người có học mà quan trọng hơn phải là người có giáo
dục. Chính trong con người thứ hai này mới diễn ta rõ hơn căn tính người, biết
mình có phẩm giá cao quý, có tương quan với Thượng Đế (hữu thể tôn giáo) sống đời
này nhưng tin và hướng về đời sau vĩnh hằng. Con người có giáo dục dễ đón nhận
và sống mạc khải của Thiên Chúa là chính Chúa Giêsu.
Đức Kitô- Giêsu, mặc khải
của Thiên Chúa, trong Người và chỉ trong Người nhân loại mới đạt thảo mọi vấn nạn,
khát vọng, những giải toả mọi bế tắc. Đấy là điều mà Giáo hội, nhờ giáo dục muốn
giúp con người, cách riêng Kitô hữu đạt thành.
(ĐCV Thánh Giuse Xuân Lộc-
5- 2010)
Lm. Đaminh Hương Quất
[1] x Samuel Enoch
Stumpt, Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, tr.41t.
[2] Nghị viện Châu âu
(PACE) cuối tháng 01-2006 đã nhất trí ra Nghị quyết số 1481 nên án Chủ nghĩa
Phát xít, các chính thể Công sản và người đứng đầu (Hitle, Stalin) là tội ác chống
nhân loại (BBC); Mới đây, ngày 09.5.2010, kỉ niệm 65 chiến thắng Phatxit Đức,
chính Tổng thống Nga Dmitry Medvedev vạch thêm tội ác của Stalin: “Một chế độ
toàn trị. Các quyền cơ bản và tự do đã bị chà đạp. Stalin đã giết dân mình hàng
loạt, tội ác này không tha thừ được’ (VOA, Vietcatholic).
[3] x. Phan Tấn Thành, Đời
Sống Tâm Linh, t8, tr44t
[4] x. Phan Tấn Thành,
sđd 77t
[5] x Marcel Neusch-
Bruno Chenu, Tham Quan Xứ Sở Thần Học. tr 138
[6] X. Từ Điển Công Giáo
Phổ Thông, mục từ Giáo dục Kitô giáo.
[7] Nền giáo dục toàn diện
giúp phát triển phẩm giá con người như
Giáo hội thì rõ ràng ở Việt Nam hiện chưa có nền giáo dục đúng nghĩa, bởi
còn mang nặng ý thức hệ lỗi thời (CNXH), độc quyền; nguy hiểm nhất dạy về duy vật-
vô thần và xem nó như ‘đỉnh cao trí tuệ’.
[8] x. Điển Ngữ thần học
Kinh Thánh, từ Ađam. II- Ađam mới
[9] Theo nhãn quan cha
Dòng Tên Teilhard de Chardil, được Công đồng Vat.2 chuẩn nhận: Đức Kitô là
Alpha và Omaega
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét