VUA CÔNG LÝ
Không có công lý thì
không có tự do, không có tự do thì không có bình an – hòa bình, nghĩa là bất ổn,
xã hội bất ổn thì hỗn loạn, sinh ra tội lỗi. Thế nên Chúa Giêsu đã đến thế gian
để bảo vệ công lý và giải thoát những con người bị áp bức, bị bóc lột. Thánh Vịnh
gia xác định: “Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới
ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.” (Tv 72:7)
Chúa Giêsu là Ngôi Hai
Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Độ duy nhất. Kinh Thánh xác định:
“Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một
danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được
cứu độ.” (Cv 4:12). Mặc dù “Người là Đấng Toàn Năng, ta chẳng sao vươn tới, Người
cao cả, vì Người hùng mạnh và công minh. Người quyền năng, vì Người chính trực,
nhưng CHẲNG ÁP BỨC AI.” (G 37:23)
Xã hội luôn cần có công
lý để loại bỏ bất công, cần có luật để duy trì an sinh xã hội. Nhưng “luật bất
công không phải là luật” (Thánh Augustinô, 354-430). Theo xã hội loài người,
công lý là một khái niệm đúng đắn về luân lý, dựa trên nền tảng đạo đức, tính hợp
lý, luật pháp, quy luật tự nhiên (hệ thống luật được xác định bởi tự nhiên,
mang tính phổ quát), tôn giáo, công bằng, cũng như việc quản lý của pháp luật,
có tính đến quyền sống bất khả nhượng của mọi người và mọi công dân, quyền
chung của mọi người và cá nhân để bảo vệ quyền bình đẳng trước pháp luật của
các quyền dân sự của họ, không phân biệt đối xử dựa trên sắc tộc, giới tính,
dân tộc, màu da, tôn giáo, tuổi tác, hoặc các đặc tính khác, và được coi là bao
gồm các luật về công bằng xã hội.
Chúa Giêsu là Vua các
vua, Chúa các chúa, bởi vì “không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và
những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.” (Rm 13:1) Thế nhưng người
ta không tin nhận Ngài, đến nỗi đã lập mưu ác sát hại Ngài. Trên đầu Thập Giá,
nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh, có ghi bảng bằng tiếng Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp:
INRI – Jesus Nazarenus Rex Judaeorum – Giêsu Nadarét là Vua dân Do Thái. Thế
nhưng các thượng tế của người Do Thái nói với ông Philatô: “Xin ngài đừng viết:
Vua dân Do Thái, nhưng viết: Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do Thái.” Tuy nhiên,
ông Philatô trả lời: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22) Vô tình mà chính họ lại
tôn vinh tử tội Giêsu là Vua. Thế mới độc đáo, kỳ lạ và mầu nhiệm. Bảng chữ đa
ngữ đó đã nói lên tất cả.
Ngày xưa theo quan niệm
phong kiến, người ta có một câu như mệnh lệnh bất di bất dịch: “Quân xử thần tử,
thần bất tử bất trung.” Thời quân chủ, vua mệnh danh là Thiên Tử, mọi quyền
hành nắm gọn trong tay, cho sống thì được sống, bắt chết cũng phải chết. Vua đi
đâu cũng có tiền hô, hậu ủng. Mọi sự sang trọng, quyền thế, ưu tiên,… đều phải
dành cho vua. Ai muốn tâu với vua điều gì cũng không được nhìn “long nhan”,
cũng không được tâu trực tiếp, mà chỉ được tâu cái bệ rồng vua ngồi: “Muôn tâu
bệ hạ.” Nhà vua độc quyền màu vàng, và cái gì của vua cũng đệm chữ “long” – rồng:
Long nhan, long thể, long bào, long sàn, long xa, long đình,… Dù sướng từ trong
trứng nước, nhưng rồi chính nhà vua cũng không tránh khỏi “long đanh” và “long
đong” như bao thần dân khác. Thế mà vẫn chảnh lắm!
Thế mà Chúa Giêsu, Vua
muôn vua và Chúa các chúa, Hoàng đế của các hoàng đế, Thủ lãnh của các thủ
lãnh, lại “được” người ta đội cho triều thiên là vòng gai nhọn và khoác cho chiếc
áo choàng đỏ, và họ mỉa mai: “Kính chào Vua dân Do Thái!” (Ga 19:3), thậm chí họ
còn vả vào mặt Ngài. Kẻ ác càng hèn càng nhát, càng nhát càng ác. Thật đáng ghê
tởm!
Ngày xưa, toàn thể các
chi tộc Ít-ra-en đến trình báo vua Đa-vít tại Khép-rôn: “Chúng tôi đây là cốt
nhục của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi,
chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Ít-ra-en. Đức Chúa đã phán với
ngài: Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo
Ít-ra-en.” (2 Sm 5:1-2) Sau đó, toàn thể kỳ mục Ít-ra-en cũng đến gặp vua tại
đó. Rồi Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan Đức Chúa. Họ đã
xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Ít-ra-en. (2 Sm 5:3) Xức dầu là dấu chỉ “công
nhận” một người nào đó với chức vụ và trách nhiệm nào đó, cụ thể là phong
vương. Ngày nay, Công giáo cũng vẫn theo truyền thống đó khi cử hành các bí
tích theo nghi thức phụng vụ, đặc biệt là nghi lễ truyền chức.
Chắc hẳn xưa nay ít người
được vào nội cung triều đình của vua chúa trần gian hoặc dinh tổng thống, người
ta chỉ đứng xa mà ngắm nhìn cũng là “có phước” lắm rồi, thậm chí có mơ cũng chẳng
thấy, huống chi đối với Thánh Cung của Thiên Chúa. Vì thế, Thánh Vịnh gia sung
sướng thốt lên: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên đền
thánh Chúa!’. Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân.” (Tv
122:1-2) Hạnh phúc biết bao, ngỡ chỉ là giấc mơ mà lại là sự thật, thật ngay
trong đời thường. Hạnh phúc gấp bội, gia tăng theo cấp số nhân. Ôi, thế thì còn
gì bằng!
Như một kỹ sư xây dựng,
Thánh Vịnh gia mô tả chi tiết: “Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối
vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh
Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en. Cũng nơi đó, đặt ngai
xét xử, ngai vàng của vương triều Đa-vít.” (Tv 122:3-5) Đền Thờ đó là Nhà Chúa
trên trần gian, nhưng vẫn thật hạnh phúc cho ai được đặt chân vào: “Một ngày tại
khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày. Thà con ở cổng đền Thiên Chúa vẫn
còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84:11) Ngày nay, cuộc sống khá hơn, nhiều
người muốn đã đến hoặc muốn được đến Ít-ra-en để đặt chân lên vùng đất mà Chúa
Giêsu đã một thời sinh sống và thi hành sứ vụ: Thánh địa Giêrusalem. Tuy nhiên,
đối với người nghèo thì chẳng khác chuyện lên cung trăng. Không thể đến được, mặc
dù rất muốn!
Những ai được vào Nhà
Chúa thì cùng được làm con cái Ngài. Thánh Phaolô động viên: “Anh em hãy vui mừng
cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp
của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực
tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu
chuộc, được thứ tha tội lỗi.” (Cl 1:12-14) Một loạt những cái “được” quý giá lắm.
Thật vậy, các tội nhân chúng ta đang từ hố bùn lầy tội lỗi mà được Thiên Chúa
kéo lên, được tẩy rửa và đặc biệt là được nhận làm con. Niềm hạnh phúc quá lớn
lao!
Đấng cứu vớt chúng ta
không là VIP bình thường theo khái niệm thế tục, mà Đấng đó là Chúa của các
chúa, Vua của các vua, vô thủy vô chung. Đấng đó chính là Chúa Giêsu Kitô, Con
Một Thiên Chúa: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra
trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng
dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền
năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người
có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu
của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử
trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu.”
(Cl 1:15-18) Vua Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, không có Ơn Cứu Độ ngoài Ngài,
và Ngài là Độc Đạo dẫn về Trời.
Với cách nói ngắn gọn mà
súc tích, Thánh Phaolô giải thích: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự
viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được
hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại
bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1:19-20) Đức Kitô là
Vua, nhưng không thị uy hoặc độc đoán như vua chúa trần gian. Vua Giêsu đã
không quản ngại thí mạng sống vì thần dân, Giá Máu của Ngài đã minh chứng tất cả.
Chắc chắn rằng, cả quá khứ và tương lai, không có một vị vua nào dám chết vì
dân tộc của mình, có tốt lành thì cố gắng làm lợi cho đất nước và nhân dân,
không thì chèn ép và “hút máu” dân để mình sống ung dung, được vinh thân phì
da.
Chúa Giêsu là Đệ Nhất Hàn
Vương, Vua Nghèo vì không ngai vàng, không sở hữu bất cứ thứ gì, xả thân quên
mình vì dân, chẳng có ai có thể nghèo như Ngài, đến cả “chỗ tựa đầu” cũng không
có. (Mt 8:20; Lc 9:58) Vua chúa hoặc tổng thống nào cũng có lễ đăng quang, kể cả
Giáo hoàng, nhưng Vua Giêsu không hề có lễ đăng quang, cứ cho là có “lễ đăng
quang” thì lại chẳng giống ai: Bị treo trên Thập Giá. Tiều tụy, te tua, tơi tả,
thiệt thòi, thảm thương,… Rất nhiều các mẫu tự T “ghép” thành Thập Tự.
Người ta đứng nhìn ngơ
ngác, kẻ sợ người lo, kẻ ho người cười, không biết có được mấy người mủi lòng!
Còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy
mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”
(Lc 23:35) Ngay cả bọn lính tráng cũng chế giễu Ngài, chúng lại gần đưa giấm
cho Ngài uống, và chúng thách thức: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy
mình đi!” (Lc 23:37) Nhưng Ngài vẫn im lặng và bất động. Trước mặt phàm nhân,
Vua Giêsu thua trắng, chiến bại hoàn toàn. Thế nhưng không phải như vậy, họ
hoàn toàn ngộ nhận vì thiển cận. Thánh Phaolô nói: “Lời rao giảng về thập giá
là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta
là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:18)
Điều lạ lùng vô cùng là
có một tử tội chung số phận với Chúa Giêsu lại có động thái khác thường. Đó là
“người gian phi sám hối”, chúng ta quen gọi là “người trộm lành” nhưng thật ra
anh ta là tướng cướp khét tiếng, đại ca thứ thiệt, dân “anh chị” chính hiệu chứ
không phải loại cướp cạn “tép riu”, vì thế mới đáng tử hình, chứ nếu chỉ là tên
trộm thì đâu đến nỗi chịu án tử như vậy.
Thế nhưng một tên tử tù đồng
bọn với anh ta cũng bị treo trên thập giá chiều hôm đó, chính hắn cũng nhục mạ
Chúa Giêsu: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng
tôi với!” (Lc 23:39) Chết tới nơi mà còn ngông cuồng, ngang ngược, thách thức
và cố chấp, không chịu “mở mắt” mà nhận biết cái sai của mình. Tội này mới đúng
là “tội tày trời” – tính cố chấp, chắc chắn không ai có thể cứu hắn. Cà cuống
chết đến đít vẫn còn cay!
Có thể là một số người
trong chúng ta cũng có “tầm nhìn” như tên-cướp-ác-ôn này. Đó là những người thiển
cận, không chịu rán sức “mở to” mắt ra để nhìn vấn đề cho thấu đáo, mà vẫn lì lợm,
thủ cựu, không chịu nhìn rộng hơn “cái bóng” của mình, hoặc không đủ “tầm” để
nhìn xa trông rộng, thế nên nhận xét của họ cũng phiếm diện. Thiển cận sinh độc
đoán, độc đoán sinh ích kỷ, ích kỷ sinh tự tôn – lúc nào cũng cho mình là
“number one” (số dzách, số một). Họ “mù” mà cứ tưởng mình “sáng mắt”. Tên-trộm-ác
là thế, không chịu nhận mình có trọng tội mà còn “gân cổ” thách thức và nguyền
rủa Đức Kitô. Có lẽ Ngài thấy tên này “dở hơi”, “trẻ ranh” vắt mũi chưa sạch
nên Ngài không thèm nói gì. Nói với hạng người cố chấp thì cứ nói với đầu gối
còn hơn!
Thế nhưng Ngài lại nói với
tên-cướp-tốt-bụng. Tại sao? Hắn có tên “cúng cơm” là Dismas (hoặc Dimas), hắn
lên tiếng phản đối: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa,
mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc
đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23:40-41) Như thế mới là “mắt
sáng”, là anh hùng, can đảm, nói thẳng nói thật chứ không hèn nhát mà che đậy
hoặc giấu giếm sự thật. Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông
vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42) Tên cướp này thực sự có “trình độ”,
xứng danh là một “tay anh chị” lắm. Anh ta đã “nhìn” rõ Tử Tội Giêsu thực sự là
VIP rất đặc biệt nên mới xin như vậy. Giỏi lắm. Nhanh trí lắm. Anh ta phải giỏi
mới đủ trình độ nhận biết Chúa Giêsu là “siêu nhân” thực sự. Tên tử tội ác ôn
kia ngu muội nên không có tầm hiểu như Dismas.
Nghe anh ta cầu xin chân
thành, Vua Giêsu nhẹ nhàng nói với thần dân Dismas ngay: “Tôi bảo thật anh, hôm
nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23:43) Có lẽ không ai may mắn
và sung sướng hơn tướng cướp “hiền lành” Dismas, vì dù tội lỗi tày trời, nhưng
anh biết thú nhận và ăn năn nên Chúa Giêsu tha thứ, và còn cho anh hơn những gì
anh muốn. Lòng Chúa Thương Xót chỉ cần thế thôi, còn tội to hay nhỏ không là vấn
đề. Tên-cướp-tốt-bụng Dismas có điều rất “độc đáo” này: Cả đời anh ta chuyên đi
ăn cướp, giờ lại “cướp” được cả Thiên Đàng. Khôn và khéo quá chừng luôn. Thật
tuyệt!
Chúa Giêsu luôn khuyến
khích các tín nhân chịu đau khổ – vác thập giá. (Mt 10:38; Mt 16:24) Khó thì Khổ,
thế nhưng lại là Khéo và Khôn. No Cross, No Crown – Không có Thập Giá thì không
có Triều Thiên, không có Đau Khổ thì không có Vinh Quang. Hạnh phúc tỷ lệ thuận
với gian nan, vất vả, hy sinh – tức là đau khổ. Thập Giá hình chữ T, Chúa Giêsu
dang tay hình chữ Y. Theo Việt ngữ, TY là Tình Yêu.
Lạy Vua Giêsu
Kitô – Vua Công Lý, Vua Cứu Thế, Vua Thương Xót, xin chữa lành con-mắt-tâm-linh
để chúng con thật lòng tin nhận Ngài là Con Thiên Chúa, là Thiên Vương đích thực
muôn đời, là Vua Cứu Độ duy nhất, và xin giúp chúng con sống kiên cường với đức
tin mà chúng con đã lãnh nhận. Kính lạy Thánh Tử Giêsu cai trị linh hồn chúng
con và cho chúng con về sum vầy tại Vương Quốc Trường Sinh, Ngài là là Đấng Hằng
Sống, đồng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, đời đời kiếp kiếp. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét