Chữ cũng là người
LM Anton Nguyễn Ngọc Sơn HKK
Lời mở
Sống trong thời đại
tin học, nhiều người ít quan tâm đến chữ viết tay vì chỉ cần gõ trên bàn phím của
chiếc điện thoại hay máy vi tính là có thể gửi thư cho nhau rồi, hoặc chỉ cần
ra lệnh cho máy in bàn là ngƣời ta có một văn bản đẹp với đủ loại kiểu dáng chữ
in. Hơn nữa, vì cuộc sống vội vã, nên những gì cần viết tay, ngƣời ta thường viết
rất nhanh, đƣờng nét không chuẩn, dấu chữ đặt sai vị trí, nhưng vẫn có thể đọc đƣợc
vì đã quen với chữ Việt và tiếng mẹ đẻ của mình. Trầm trọng hơn cả là ngƣời ta
coi thƣờng văn phạm trong những văn bản trên báo chí, truyền hình, sách vở,
dùng những từ thông tục và thƣờng đánh dấu các từ không chính xác theo ngôn ngữ
học. Ngƣời Việt chúng ta hiện nay quả thật ít quan tâm đến văn hoá chữ viết và
quên rằng chữ cũng là người!
1. Câu chuyện thực tế Tôi làm giảng viên dạy
môn Kỹ thuật Chữ cho các sinh viên ở khoa Công nghệ In của
trƣờng Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật TP.HCM, ở khoa Mỹ thuật Công nghiệp của trƣờng
Đại học Kiến Trúc TP.HCM, ở khoa Ngữ văn Báo chí của trƣờng Đại học Tổng hợp
TP.HCM, cũng nhƣ các môn khác trong các học viện Công giáo ở TP.HCM trong nhiều
chục năm qua. Tôi đã thử cho các sinh viên viết 4 câu thơ sau đây trong Truyện
Kiều của thi hào Nguyễn Du:
Trăm
năm trong cõi người ta,
1 Theo Bộ Thông tin Truyền
thông, có 60 triệu người Việt Nam sử dụng internet 7 giờ/ngày trên tổng dân số
95 triệu người. Báo Thanh Niên ngày 10/12/2018, tr.7, chiếm hơn 60% Facebook
60tr.
Chữ
tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải
qua một cuộc bể dâu,
Những
điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Trong hơn 5.000 sinh viên tôi mời thử nghiệm,
trong lần viết đầu tiên, chƣa có một ai viết đúng chính tả và đặt dấu giọng
chính xác. Họ thƣờng sai ở một số lỗi chính tả khi đặt dấu hỏi (?) cho từ cõi,
hay đặt dấu ngã (~) cho từ trải. Hầu hết là họ đánh dấu giọng sai vị trí: những
dấu đó thƣờng đƣợc đánh vào chữ sau, đặt lên trên các phụ âm, hay đánh vào phía
sau từ chứ không trên nguyên âm hay phụ âm nào
Người
Việt chúng ta vì quen từ quen mắt nên đọc ra ngay đƣợc, nhƣng đối với ngƣời nƣớc
ngoài đã học cách đánh dấu đúng chữ Việt, họ không thể nào hiểu từ đó là gì và
tại sao lại đánh dấu nhƣ thế. Thí dụ: “Trăm năm trong coĩ ngƣơì ta…”
2.Các em học sinh lớp
1 học viết tiếng Việt như thế nào?
Trở
lại câu chuyện giáo dục, từ bao nhiêu năm nay, các thầy cô dạy tiếng Việt cho
các em học sinh lớp 1 bậc tiểu học, vẫn dạy cách đánh dấu giọng hay dấu thanh
(sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) phải đặt trên nguyên âm chứ không đặt trên phụ âm
(x. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tiếng Việt lớp 1, 2 tập , NXB Giáo dục Việt Nam,
2018). Ngay từ bài đầu tiên của sách Tiếng Việt lớp 1, Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã yêu cầu các thầy cô dạy các em học sinh viết chữ với những nét chính, nét phụ
theo các đ ường căn bản nhƣ đƣờng nền, đƣờng chữ hoa, đƣờng chữ
thƣờng, đƣờng trên, đƣờng dƣới, phân biệt chữ in và chữ viết tay. Khởi đầu với
những từ có 1 nguyên âm nh ư: bé bè bẻ bẽ bẹ (Bài 3), đến 2 âm
nhƣ: mía, bìa, hoặc 3 âm nhƣ: chiều, chuối, bưởi, diều, rượu (Bài 35-42), rồi đến
các vần có âm tiết cuối với 1 nguyên âm nhƣ bàn, sàn (Bài 44), đến 2 nguyên âm
nhƣ điện, yến, chuồn chuồn (Bài 50) hoặc hai âm tiết cuối nhƣ: võng, luống, trường
(Bài 56). Những bài sau cùng dành cho các vần khó nhƣ hoa, hoà, xoè, khoẻ (Bài
91), hoặc thoại, xoay (Bài 92), hoài, hoàng, hoằng (Bài 94), hoạt, choắt (Bài
96), hoặc huệ, huý (Bài 98), hay thuở, khuya (Bài 99). Chắc chắn ở tuổi 6,7 các
em chưa thể phân biệt đƣợc các chữ i, o, u trong một số vần lúc này là nguyên
âm, lúc khác là bán phụ âm theo khoa ngôn ngữ học hiện đại. Nhƣng các bài dạy
trong giáo trình Tiếng Việt lớp 1 là hoàn
2
Nguyễn Ngọc Sơn, Kỹ thuật Chữ, giáo trình trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
TP.HCM, NXB Giáo Dục, 1996.
3
Hình ảnh bài Tiếng Việt lớp 1, Tập 1, tr 1-3.
toàn
chính xác, dù các em học theo ph ương pháp của Bộ Giáo dục
hay theo ph ương pháp Công nghệ Giáo dục của giáo s ư
Hồ Ngọc Đại.
3. Người lớn chúng ta hiện nay đánh dấu ra sao? Dù Việt Nam chúng ta đã có Viện Ngôn ngữ học,
với những cuốn từ điển Tiếng Việt đƣợc coi nhƣ quy chuẩn cho việc sử dụng từ ngữ
và viết chữ. Thí dụ như Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ do giáo sƣ Hoàng
Phê chủ biên, Từ điển Bách khoa Việt Nam do Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn.
Nhưng việc dùng từ ngữ và nhất là cách đánh dấu giọng trên các từ vẫn còn rất
tuỳ tiện. Hơn nữa, chúng ta còn có Quyết định số 240/QĐ ngày 5/3/1984 của Bộ
trƣởng Bộ Giáo dục ban hành kèm theo bản "Quy định về Chính tả tiếng Việt
và về thuật ngữ tiếng Việt", và Quyết định số 09/1998QĐ-VPCP, ngày
25/11/1998 của Văn phòng Chính Phủ về cách viết hoa các tên riêng. Tuy dù các
văn bản pháp quy đó rất rõ ràng và cụ thể, nhiều văn bản của chính quyền cũng
như của các tổ chức xã hội dân sự vẫn chƣa giữ đúng các quy định đó. Các văn bản
thường đánh sai dấu trên các vần oa, oe, uê, uơ, uy (Thí dụ: trong các từ hóa,
lóe, hụê, thủơ, thúy,) vì không phân biệt đƣợc các chữ a, e, i, o, u, y có thể
là nguyên âm và cũng có thể là bán phụ âm. Chúng tôi đã phân tích vấn đề và đã
trình bày trong cuộc Hội thảo Khoa học ở Bình Định, từ ngày 12-13/1/2016, với
chủ đề Bình Định với chữ Quốc ngữ. Cách đặt dấu giọng sai sót này đang phổ biến
và lan rộng trong các sách vở, báo chí, truyền hình. Nó đi ngƣợc với sự chuẩn
hoá của tiếng Việt theo đúng khoa ngôn ngữ học đƣợc Nhà nƣớc quy định. Nó cũng
biểu lộ tính phân hoá của ngƣời Việt Nam, thái độ coi thƣờng pháp luật và không
tôn trọng khoa học của ngƣời Việt Nam, khiến cho ngƣời nƣớc ngoài đánh giá thấp
giá trị tiếng Việt và chữ Việt.
4Tranh cãi về Công nghệ giáo
dục Tiếng Việt lớp 1, Người trong cuộc nói gì, Báo Tuổi Trẻ, ngày 9/9/2018,
tr.1,2,3; Báo Thanh Niên, ngày 9/9/2018, tr.5.
5Trung tâm Từ điển học, Từ
điển Tiếng Việt, 2013, NXB Đà Nẵng-Vietlex, Hà Nội, 2013.
6Hội đồng Quốc gia chỉ đạo
biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển BKVN, Hà Nội, 1995-2005.
7Vietlex, Từ điển Tiếng Việt, 2013, tr.V.
8Quy định Số: 09/1998/QĐ-VPCP, Thư viện Pháp
Luật, Internet.
9Tài liệu Hội thảo, Lm.
Nguyễn Ngọc Sơn; Bài tham luận Việc thống nhất cách đặt dấu giọng trên vài vần
cho phù hợp với khoa ngôn ngữ học hiện đại, tr.519-527.
Nguyên
nhân: thái độ này bắt nguồn từ
những dữ liệu trong lịch sử nhƣ cách đánh dấu giọng chƣa chính xác trong các cuốn
từ điển nhƣ Từ điển Việt La của giám mục Adran biên soạn năm 1771-1772, của
giám mục Taberd xuất bản năm 1838, Từ điển Việt Pháp của A. Caspar Lộc xuất bản
năm 1877, và của J.M. Génibrel năm 1898, cuốn Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Paulus
Huỳnh Tịnh Của xuất bản năm 1895-1896, cuốn Đại Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn
Nhƣ Ý và các bạn xuất bản năm 2013, và một số từ điển Tiếng Việt mới đây của Viện
Ngôn ngữ do Hoàng Long chủ biên xuất bản năm 2007 hay do Quang Hùng, Minh Nguyệt
biên soạn xuất bản năm 2007. Sự xuất hiện của các từ điển này đã gây rối loạn
trong cách viết tiếng Việt hiện nay.
4.Văn hay chữ tốt Cha ông ta thường nhắc nhở: văn hay chữ tốt,
chứ không phải văn hay chữ đẹp. Có những ngƣời viết chữ rất đẹp giống nhƣ ông đồ
xƣa: Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay. Tuy nhiên, nhìn nét chữ của
ngƣời đó ngƣời ta có khi chỉ thấy tính bay bƣớm, ăn chơi phóng đãng của họ chứ
không biểu lộ tâm hồn cao thƣợng, tốt đẹp. Vì thế người ta cần viết chữ tốt hơn
là chữ đẹp. Văn là ngƣời và chữ cũng là người! Khoa tâm lý học hiện đại đã căn
cứ vào những nét chữ viết tay để đoán ra tâm tính, tư cách, tài năng của con
ngƣời. Người ta áp dụng việc phân tích nét bút của người viết trong các ngành
tuyển dụng nhân sự, lựa chọn nghề nghiệp, giám định tu pháp. Các nhà tâm lý học
còn cho rằng có sự liên hệ, tương quan giữa nét chữ và sức khoẻ tâm lý. Căn cứ
vào nét chữ to, nhỏ, đậm, nhạt, nét mạnh mẽ, thẳng đứng hay cong queo, chữ rộng
hay hẹp, khoảng cách giữa các từ nhiều hay ít, chiều cao của chữ hoa vừa hay thấp,
độ nghiêng của chữ về bên phải hay bên trái… mà người ta có thể đoán ra phần
nào khả năng, trí tuệ, tâm tính của người viết. Thật ra, việc phân biệt rõ
chính tà, tốt xấu của một người không thể chỉ căn cứ vào chữ viết bên ngoài, dù
rằng chữ viết có thể giúp phỏng đoán phần nào khi dùng nó như dấu hiệu. Con người
là một mầu nhiệm sau thẳm vô cùng, nên cha ông ta vẫn nhắc nhở: Dò sông dò biển
dễ dò.
11Lm. Nguyễn Ngọc Sơn, Bài tham luận tại Hội
thảo khoa học ở Bình Định, ngày 12-13/1/2016, tr.520-523.
12Vũ Đình Liên, Bài thơ
Ông Đồ, sáng tác năm 1936 Internet, 6/12/2018,
Chữ viết thể hiện tâm người, có thể phân biệt
rõ người chính kẻ tà, Bài của Tuệ Minh; Chỉ cần nhìn chữ viết, tôi có thể nói bạn
là người thế nào, Bài của R.D.
Nào ai lấy thước mà đo lòng người. Người ta có
thể sử dụng bút tích như một dấu hiệu để suy đoán, vì những nét chữ hình thành
từ những thói quen lâu dài của con người, từ quan điểm về nghệ thuật, từ hoàn cảnh
của người viết (cấp bách hay bình thường), từ tâm trạng (thư thái hay bất an).
Nếu nét chữ chỉ là một dấu hiệu để suy đoán, thì ta cũng đừng dùng nó như một bằng
chứng để quyết đoán về con người. Con người luôn mở ra tới vô biên và nét chữ
có thể luôn thay đổi để việc suy đoán của ta không bao giờ tận cùng! Có lẽ vì
muốn cho con cái mình luyện được chữ tốt, nên cha mẹ thời xưa thường thúc giục
con cái tập đồ các chữ theo các tập in sẵn để luyện chữ viết cho thẳng hàng,
cân đối, hài hoà. Các cháu học sinh lớp 1 hiện nay cũng đang làm như vậy, nhưng
nhiều cha mẹ lại ít quan tâm đến việc này, vì chữ viết của họ rất xấu, không
dám làm gương cho con cái. Nhiều người viết mà người khác đọc không ra chữ khiến
cho thi sĩ Nguyễn Khuyết phải than: Văn hay chữ tốt ra tuồng Văn dai như chão,
chữ vuông như hòm!
5. Chữ Quốc ngữ
- chữ nước ta
Chữ Quốc ngữ hiện nay là
chữ ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh, có bổ sung một số dấu phụ của tiếng
Ý, tiếng Bồ Đào Nha, đƣợc các linh mục Dòng Tên phƣơng Tây nhƣ Francisco de
Pina, João Roiz, Gaspar Luis, Cristo Forro Borri, Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ),
Gaspar d'Amaral với sự cộng tác của ngƣời Việt Nam nhƣ Igesicô Văn Tín, Bento
Thiệu sáng tạo ra trong khoảng 1620-165914. Điều đáng ghi nhận ở đây là dù khoa
ngôn ngữ học vào thời đó chƣa đƣợc thành hình, nhƣng trong các tác phẩm của
Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) nhƣ Phép giảng Tám ngày, Văn phạm Annam, nhất là
cuốn Từ điển ViệtBồ-La xuất bản năm 1651 ở Rôma, các dấu giọng đƣợc đánh rất
chính xác trên các từ nhƣ hoá, hoà, hoả (tr.329-330) phân biệt với
13 X. Internet, bài Ngộ
nhận trong tâm lý học: chữ viết tiết lộ được những đặc điểm tính cách của con
người. Tác giả của cuốn 50 ngộ nhận phổ biến của tâm lý học phổ thông. S.O.
Lilienfeld, S.J. Lynn; J.Ruscio. Người dịch Nguyễn Hoàng.
14 X. Đỗ Quang Chính, Lịch
sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, NXB Ra Khơi, Sài Gòn, 1972.
hào, hảo (tr. 315,316) hoặc trên các từ thuế
(tr. 782), lào (tr.402) léo (tr.411) và loã lồ (tr.417) theo đúng với Từ điển
khoa Ngôn ngữ học. Riêng vần uy với từ hủy (tr.341) và thủy (tr.783), chúng tôi
hiểu rằng những con chữ sắp tay đúc bằng chì thời đó chƣa đúc đƣợc theo đúng ý
của tác giả vì độ đặt dấu "nặng" dƣới chữ y (ỵ) không thể thực hiện
đƣợc nhƣ ta thấy tác giả Gustave Hue đã nói đến lý do này trong lời mở đầu cho
cuốn Từ điển Việt Hoa Pháp xuất bản năm 1937 của ông ở Huế.
6. Vài cách
viết nên sửa đổi cho thống nhất
6.1. Đặt dấu giọng trên
các vần oa, oe, uê, ươ, uy
Chúng ta không thể nói đến
việc đặt dấu giọng sai hay đúng đối với các bậc tiền nhân thuở trước, vì tiếng
Việt là một sinh ngữ luôn luôn phát triển và khoa ngôn ngữ học hiện đại mới chỉ
có mặt trên thế giới cách đây khoảng 100 năm, và trong nƣớc ta khoảng 50 năm mà
thôi. Việc không thống nhất dấu giọng trong các từ điển, sách báo từ thời
Alexandre de Rhodes cho đến nay là chuyện bình thƣờng trong việc hình thành và
phát triển tiếng Việt. Tuy nhiên, một khi chúng ta đã có những nguyên tắc rõ
ràng của khoa ngôn ngữ học để có cách đánh dấu chuẩn mực, đƣợc thể hiện qua các
sách giáo khoa và từ điển nhƣ bộ Từ điển Bách khoa Việt Nam, thì chúng ta cần
tiến tới sự thống nhất cách đặt dấu giọng trên toàn quốc và phổ biến cả ra nƣớc
ngoài để những ai học tiếng Việt tìm đƣợc sự trong sáng và hợp lý. Việc thiếu
thống nhất trong cách đặt dấu giọng trên các vần oa, oe, ue, uơ, uy bắt nguồn từ
nhiều nguyên nhân nhƣ do thói quen đánh dấu từ nhỏ, do việc tra cứu các từ điển
không đánh dấu đúng theo ngôn ngữ hiện đại. Lý do quan trọng nhất là sự lầm lẫn
giữa âm và chữ trong tiếng Việt. Trong mỗi ngôn ngữ, ngƣời ta phân biệt phụ âm
và nguyên âm. Tiếng Việt hiện nay có 33 chữ cái: A Ă Â B C D Đ E Ê F G H I J K
L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ƣ V W X Y Z với 5 thanh điệu: không dấu, huyền, hỏi,
ngã, sắc, nặng17. Tiếng Việt có khoảng 55 âm vị. Khi ngôn ngữ học hiện đại chƣa
phát triển, rất nhiều ngƣời Việt cho rằng các chữ a e i o u y đều là những
nguyên âm, nên việc phát âm và đặt dấu giọng trên các từ giống nhƣ nhau. Thí dụ:
từ hào và từ hoà gồm hai “nguyên âm” a và o, vì thế đặt dấu giọng vào giữa là
giống nhau và hợp lý nên viết “hào” và “hòa”. Tƣơng tự, các vần eo và oe với từ
héo và hoè với hai “nguyên âm” e và o nên viết “héo” và “hòe”; vần iu và ui, uy
với từ thiu, thúi, thúy vì cho rằng
15 X. Lm. Nguyễn Ngọc
Sơn, Bài tham luận tại Hội thảo khoa học ở Bình Định, tr.520.
16 X. Lm. Nguyễn Ngọc
Sơn, Bài tham luận tại Hội thảo khoa học ở Bình Định, tr.523.
17 X. Quyết định số 240/QĐ, ngày 5/3/1984 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục về Quy định về Chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt.
đó là các “nguyên âm” i,
u và y. Khi đặt dấu giọng nhƣ thế, ngƣời ta thấy cân đối và đẹp nữa. Nhƣng khi
gặp vần êu và uê với từ tếu và tuế, ngƣời ta lại đặt dấu giọng khác nhau dù vẫn
là “nguyên âm” ê và u. Các từ điển đều đặt dấu giọng ở âm sau trên các từ huệ,
huề, Huế, cũng nhƣ khi gặp vần uơ trong từ thuở. Ngƣời ta không còn đƣa ra lý
do cân đối mà giải thích theo thói quen, nhƣ ta thấy đa số trong các từ điển,
sách báo và trên các phương tiện truyền thông hiện nay. Với ngôn ngữ học hiện đại,
người ta phân biệt các chữ a e i o u y có thể là nguyên âm nhƣng cũng có thể là
bán nguyên âm (hay bán phụ âm) tuỳ theo cách đọc từ của mỗi dân tộc. Mỗi từ trong
tiếng Việt đƣợc gọi là âm tiết. Đây là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất của lời
nói. Âm tiết trong tiếng Việt gồm âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu
đƣợc biểu lộ thành không dấu hay dấu giọng. Theo truyền thống, âm tiết tiếng Việt
được chia thành 2 phần: âm đầu và vần. Căn cứ vào phương thức kết thúc, âm tiết
tiếng Việt được phân thành bốn loại: âm tiết mở, âm tiết nửa mở, âm tiết nửa
khép và âm tiết khép. Trong tiếng Việt có 2 bán nguyên âm: /w/ và /j/ có đặc
tính giống nhƣ nguyên âm /u/ và /i/ nhưng được phát âm lướt, không mở đầy đủ như
/u/ và /i/
Dấu giọng chỉ được đặt trên nguyên âm của một
từ, vì khi "nguyên âm kết hợp với các âm tố khác, nó luôn tạo thành đỉnh của
vần"
Trong các vần oa oe, uê, uơ, uy ngƣời ta không
phân biệt đƣợc các âm đầu (chữ o và u) chỉ là bán nguyên âm /w/
còn các âm sau mới là
nguyên âm và là âm chính, nên dấu giọng phải đặt trên nguyên âm này. Trong từ
hoà /hwà/: chữ o là bán nguyên âm nên dấu giọng phải đặt trên nguyên âm a, còn
trong từ hào /hàw/: chữ o là bán nguyên âm. Tương tự, trong từ héo /héw/: chữ o
là bán nguyên âm, còn trong từ hoè /hwè/: chữ o cũng là bán nguyên âm. Trong
các từ tếu /tếw/, tuế /twế/ chữ u là bán nguyên âm, nên dấu giọng được đánh
trên nguyên âm ê. Trong các từ thìu /θìw/, thúi /θúj/ hai chữ i ở đây rất khác
nhau: chữ đầu là nguyên âm, chữ sau là bán nguyên âm /j/, nên dấu giọng được
đánh trên nguyên âm i ở từ đầu và nguyên âm u ở từ sau. Nếu so sánh hai từ thúi
/θúj/ và thuý /θwí/
18 X. Từ diển Bách khoa
Việt Nam, mục từ Âm tiết, Q. 1, tr.118.
19 X. L.R. Zinder, Giản yếu
lý thuyết đại cương về chữ Việt, Mokba, 1987; Bùi Khánh Thế, Nhập môn Ngôn ngữ
học, NXB Giáo dục, 1995, tr.53.
ta sẽ thấy hai chữ u rất khác nhau: chữ u
trong từ đầu là nguyên âm, chữ u ở từ sau là bán nguyên âm, nên vị trí đặt dấu
khác nhau. Trong tiếng Việt, nhiều khi có 3 chữ được coi là nguyên âm viết liền
nhau, nhưng phân tích về mặt ngôn ngữ học, ta chỉ thấy có 1 nguyên âm hay
nguyên âm đôi. Thí dụ: ngoài /ηwàj/, tiêu /tiêw/, điều /điềw/. Chính vì dựa trên
cách phiên âm theo ngôn ngữ học hiện đại mà Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ
và bộ Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng như các sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã đặt dấu giọng trên các nguyên âm trong các vần oa, oe, uê, uơ, uy như
trong các từ hoà, hoả, hoá, hoạ, hoè, huệ, thuỷ, thuở. Khi đặt đúng dấu giọng
như thế chúng ta mới giải thích cho những ai học các ngoại ngữ thấy sự hợp lý của
các dấu giọng trong tiếng Việt. Các âm trong từ còn được đo lường bằng dụng cụ
để xác định đó là âm tiết chính hay âm đệm, mở hay khép, nửa mở hay nửa khép.
Phụ âm còn được chia theo vị trí cấu âm thành âm môi-môi, môi-răng… hay theo
phƣơng thức cấu âm thành âm tắc, âm xát, âm tắc xát, âm rung, âm bật hơi…vì
ngôn ngữ học hiện đại là một khoa học chính xác, căn cứ trên dữ liệu thực tế chứ
không phải do thói quen hay do kiểu viết cân đối cho đẹp mắt. Ta có thể cảm
nghiệm và phân biệt giữa nguyên âm và bán nguyên âm bằng cách khi đọc các vần
oa, oe, uê, uơ, uy, môi và miệng chúng ta bó buộc phải chụm lại giống như nhau
và đọc lướt nên đó là bán nguyên âm /w/. Nếu so sánh với tiếng Anh ta cũng thấy
có sự tương tự. Nhiều người Việt Nam cảm thấy khó phân biệt các âm với chữ viết,
nhất là đối với bán nguyên âm /w/ và /ju/ trong các từ bắt đầu bằng chữ o hay
u. Thí dụ: chữ o trong các từ onus, onyx, opinion… là nguyên âm, trong khi chữ
o trong các từ one, once, ... là bán nguyên âm /w/. Hoặc chữ u trong các từ
ulcer, umbrella, unbelief, unguis … là nguyên âm /ᴧ/ trong khi chữ,u trong các
từ unit, uniform, unicycle…là là bán nguyên âm /ju/. Điểm phân biệt này khá
quan trọng để ta có thể dùng đúng các mạo từ a, an hoặc đọc đúng mạo từ the
/ðe/ hay /ði/ trƣớc các từ đó.
6.2. Thống nhất
cách viết hoa các tên riêng
- Về cách
viết tên riêng tiếng nước ngoài
Chúng ta cần tuân theo
đúng Quy định số 240/QĐ, ngày 5/3/1984, của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục về Chính tả
tiếng Việt, về Thuật ngữ tiếng Việt và quy định số 09/1998QĐ-VPCP, ngày
25/11/1998, của Văn phòng Chính phủ về Cách Viết hoa các Tên riêng. Cụ thể là
chúng ta viết nguyên ngữ theo tiếng Latinh, viết liền các âm tiết, không có dấu
giọng và cũng không viết phiên âm trong ngoặc đơn. Thí dụ: Marcus, Aurelius,
Washington, Bastille. Chúng ta giữ nguyên những địa danh đã được Việt hoá quá
quen thuộc như: Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha… Chúng ta giữ hình thức chuyển ngữ
sang tiếng Latinh đối với những tên bản ngữ không phải là tiếng Latinh như:
Poutine, Araphat, Tagore như đã được Quy định trong các văn bản quốc tế của
Liên Hiệp Quốc. - Đối với các tên riêng của Công giáo Việt Nam, chúng ta nên
theo sát cách viết đã được giới thiệu trong cuốn Từ điển Công giáo (gồm 2022 mục
từ) của Uỷ ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, xuất bản
năm 2019. Thí dụ: Giêsu Kitô, Maria, Clara… thay vì viết Giê-su Ki-tô, Ma-ria,
Cơ-la-ra…
- Về cách viết hoa các tổ
hợp tên riêng
Chúng ta nên phân biệt tổ
hợp chữ hoa gồm nhiều thành tố. Viết hoa chữ đầu âm tiết tạo nên tên riêng (yếu
tố 1), viết hoa âm tiết đầu của các từ bổ nghĩa (yếu tố 2), viết hoa tất cả các
âm tiết tạo nên tên riêng (yếu tố 3).
Thí dụ:
Yếu tố 1: Bộ, Văn phòng, Nhà máy,
Hội thánh, Uỷ ban, Ban
Yếu tố 2: Văn hoá Du lịch,
Chính phủ, Sản xuất Phích nước, Công lý và Hoà bình, Tin lành, Loan báo Tin mừng.
Yếu tố 3: Việt Nam, Việt Nam, Hoà Bình, Việt Nam, Việt
Nam, Giáo xứ Trà Kiệu
Lời kết
Người tín hữu Công giáo
Việt Nam chúng ta có quyền tự hào vì đã đóng góp vào việc phát minh ra chữ Việt
và đã chịu biết bao đau khổ, bách hại, thậm chí dâng hiến cả mạng sống để bảo vệ
những giá trị văn hoá cao quý của Công giáo. Tuy nhiên hình như chúng ta chưa
biết bảo tồn và phát huy những giá trị của tiếng Việt và chữ Việt: rất nhiều
sách báo Công giáo hiện nay không tuân thủ các quy tắc và tiêu chuẩn khoa ngôn
ngữ học, chúng ta 10 cũng chưa thúc đẩy việc sáng tác các thơ văn để có nhiều
tác phẩm có giá trị văn học. Chúng ta cần cố gắng hơn nữa để khỏi thẹn với cha
ông và có trách nhiệm nhiều hơn với thế hệ tương lai.
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn đã quan tâm thế
nào với chữ viết của bạn?
2. Bạn nghĩ mình nên làm
gì để cổ vũ cho việc phát triển văn học Công Giáo?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét