Ngũ vị và chiêm nghiệm cuộc đời
cdtg.net
cdtg.net
Người xưa tin rằng, ngũ
hành tương sinh tương khắc, chuyển hóa qua lại, là nguồn gốc của sự vận động vũ
trụ và bên trong con người.
Người xưa tin rằng, ngũ
hành tương sinh tương khắc, chuyển hóa qua lại, là nguồn gốc của sự vận động vũ
trụ và bên trong con người. Chính vì thế, nếu dinh dưỡng cân bằng được ngũ vị,
sẽ đảm bảo cơ thể khỏe mạnh, ngũ tạng được bồi bổ, sức khỏe dài lâu.
Tác dụng của các vị
Đông Y cho rằng, ngũ vị
tương ứng với ngũ hành tạng phủ như sau: vị chua thuộc Mộc vào tạng Can, vị cay
thuộc Kim vào tạng Phế, vị mặn thuộc Thủy vào tạng Thận, vị ngọt thuộc Thổ vào
tạng Tỳ, vị đắng thuộc Hỏa vào tạng Tâm. Chuộng vị nào sẽ bổ cho tạng đó.
Để đảm bảo cho các cơ
quan được hoạt động tốt, người ta có thể “bổ” chúng bằng các vị. Mỗi cơ quan
tương ứng với một vị. Bằng cách áp dụng tương sinh và tương khắc, ta có thể rút
ra được:
Vị mặn đi
vào thận (hành thủy), nhưng
mặn quá sẽ hại tim và ruột non (hành hỏa).
Vị đắng đi vào
tim (hành hỏa), nhưng đắng quá sẽ
hại phổi và ruột già (hành kim).
Vị cay đi vào phổi (hành kim), nhưng
quá cay sẽ hại gan (hành mộc).
Vị chua đi vào gan (hành mộc), nhưng
chua quá sẽ làm hỏng tỳ vị (hành thổ).
Vị ngọt đi vào dạ dày,
tuyến tụy (tỳ, vị – hành thổ), nhưng ngọt quá sẽ hại thận
và bàng quang (hành thủy).
Theo y học cổ truyền, mỗi
loại thức ăn đều có những tính chất riêng, được người xưa chia ra “tứ khí” và
“ngũ vị”. Tứ khí: nóng, lạnh, ấm, mát. Nóng và ấm là dương. Lạnh và mát là âm.
Trong số các thức ăn hằng ngày, như các loại thịt: thịt dê có tính nóng (nhiệt),
thịt chó có tính ấm (ôn), còn thịt vịt tính mát (lương).
Ngũ vị còn
tượng trưng cho năm cung bậc cảm xúc của con người:
Ngọt ngào, mặn nồng, chua
chát, đắng cay trong cuộc đời. Phàm đã sống trên đời, ai cũng phải trải qua năm
cảm xúc đó, không thể tránh khỏi. Thưởng thức một món ăn có đủ ngũ vị còn là một
sự chiêm nghiệm, nghĩ về những điều đã xảy ra trong đời.
Điều lý thú là đối với
các thứ rau quả có thể thông qua màu sắc mà biết được đặc tính nóng lạnh của
chúng. Các thứ rau quả có màu sắc nhạt phần nhiều là lạnh và mát, các thứ thẫm
màu thường là ấm, nóng. Củ cải, lê, chuối tiêu có tính mát, còn táo, đậu đen, đậu
đỏ có tính ấm. Đối với thủy sản thì đại đa số những thứ có vỏ cứng như cua, ốc,
rùa… thường có tính lạnh hoặc mát; các thứ như: lươn, tôm, cá trắm… có tính ấm
hoặc nóng.
Thức ăn có thể nuôi sống
người và có thể hại người, cho nên cần chủ động lợi dụng các đặc tính về hàn
nhiệt của thức ăn để điều chỉnh lại sự cân bằng của âm dương trong cơ thể. Người
ta tuy béo gầy, cao thấp khác nhau, song để bồi bổ, có thể chia ra 2 loại lớn,
đó là: “âm hư” và “dương hư”.
Người âm
hư: thường thấy lòng bàn chân, bàn tay nóng, trong
người bứt rứt không yên, miệng khô, chất lưỡi đỏ, mạch đập nhanh, đại tiện táo…
Người thuộc tạng này nên ăn các thứ như: mộc nhĩ, hạt sen, bí đao, dưa chuột, đậu
phụ, chuối tiêu, dưa hấu, thịt vịt, thịt ngỗng, trứng gà, cá diếc, cá trắm đen,
ếch… Những thứ như tỏi, ớt, thịt dê không nên dùng; thịt bò, thịt chó, quả
nhãn, quả vải không nên dùng nhiều.
Người dương hư: nét mặt
xanh nhợt, sợ lạnh, tiểu tiện trong dài, đại tiện nhão nát, mạch trầm tế (mạch
chìm sâu và nhỏ yếu), chất lưỡi nhạt… Người thuộc tạng này nên ăn các thức ăn hỗ
trợ dương khí như: thịt dê, thịt chim sẻ…; nên ăn hoa quả như: đào, hạnh, vải,
nhãn, mít, dứa…; không nên dùng quá nhiều những thứ thịt, cá và rau quả có tính
lạnh.
Ngũ vị: kết quả khí hóa của âm dương. “Ngũ vị” là
5 thứ vị: cay – ngọt – chua – đắng – mặn (tân – cam – toan – khổ – hàm). Nói
chi tiết thì phải kể đến cả vị nhạt (đạm), song nó thường được xếp cùng vị ngọt,
cho nên thường chỉ nói đến 5 vị. Ngũ vị liên quan đến thành phần, tác dụng dinh
dưỡng và tác dụng điều trị của thức ăn. Thành phần khác nhau thì vị sẽ khác
nhau, giá trị dinh dưỡng và tác dụng điều trị cũng sẽ khác. Điều hòa ngũ vị
không những là điều hòa sự quân bình về âm dương trong nội bộ cơ thể, mà còn là
sự cân bằng giữa cơ thể và môi trường bên ngoài. Một năm có 4 mùa, phải điều
hòa ngũ vị sao cho cơ thể hòa hợp được với khí 4 mùa trong trời đất. Cụ thể:
mùa Xuân cần hạn chế vị chua và tăng thêm vị ngọt, mùa Hạ nên ăn ít các thứ đắng,
mặn và ăn nhiều các thứ cay ấm; mùa Thu cần “giảm cay tăng chua”; mùa Đông nên
hạn chế vị mặn và tăng cường vị đắng. Sự điều tiết ngũ vị trong 4 mùa cũng
không ngoài mục đích là làm cho âm dương và ngũ hành trong cơ thể vận hành đồng
bộ phù hợp với tứ khí 4 mùa trong trời đất. Thuận theo trời đất mà điều hòa
thân thể cũng là bí quyết lớn nhất của thuật dưỡng sinh phương Đông.
Sáng tạo: ngũ vị hương
Ngũ vị hương là loại gia
vị mang đậm bản sắc văn hóa phương Đông. Đó vừa là sự hòa quyện khéo léo giữa
triết lý âm dương – ngũ hành đã in sâu trong văn hóa Việt, vừa là sự phản chiếu
chính xác các cung bậc tình cảm của con người. Thành phần của ngũ vị hương
không giống nhau. Mỗi vùng miền lại có một cách pha chế khác nhau, phụ thuộc
vào khẩu vị và đặc sản địa phương. Nhưng thành phần truyền thống là công thức
bao gồm: tiêu, quế, đinh hương, hồi hương và hạt cây thì là. Các đầu bếp xưa đã
cố gắng tìm ra loại gia vị “hoàn hảo”, bao gồm đầy đủ 5 yếu tố: chua, cay, mặn,
ngọt, đắng. Sau đó, một cách tình cờ, họ đã kết hợp được năm loại gia vị khác
nhau thành một, và cảm nhận được sức mạnh của loại gia vị mới này trong việc
làm các món ăn trở nên sinh động, đậm đà.
Tiêu:
đúng nguồn gốc thì phải là loại tiêu Szechwan. Gọi là “tiêu” nhưng Szechwan thuộc
họ chanh, không cay, vị mạnh tựa mùi long não. Người ta chỉ dùng vỏ ngoài màu đỏ
sẫm xay thành bột sau khi phơi khô. Vì không dễ kiếm trên thị trường, nên tiêu
Szechwan thường được thay bằng tiêu hột. Tiêu có tác dụng kích thích tiêu hóa, ấm
bụng, giảm đau, chống nôn.
Hồi: quả của cây hồi, có hình năm cánh xòe ra. Cây trồng được
6 năm thì bắt đầu thu hoạch và thời gian thu hoạch có thể kéo dài suốt cả tuổi
thọ của cây, gần trăm năm. Quả được hái khi chưa chín và để phơi cho chín trên
các phên mắt cáo, cho đến khi có màu nâu gỉ sắt. Ngoài ra, hạt cây hồi còn dùng
cho bánh ngọt, bánh mì, các đồ ngọt và thức uống như trà. Hồi hương có thể chữa
họng, ho.
Đinh hương: nụ hoa nguyên búp của cây đinh hương được phơi khô
trong 3 ngày và có hương thơm, nhiều tinh dầu, hơi vàng nâu và rắn. Nụ đinh
hương phải được bảo quản trong tối và mát. Người ta dùng đinh hương để ướp thịt
cá, bánh ngọt và thức uống. Đinh hương có thể dùng trong nấu ăn hoặc là ở dạng
nguyên vẹn hay ở dạng nghiền thành bột, nhưng do nó tạo mùi rất mạnh cho nên chỉ
cần dùng rất ít. Trong Đông y, đinh hương được dùng để trị nấc cụt, thổ tả, đau
bụng còn trong Tây y thì nó kích thích tiêu hóa, sát trùng mạnh.
Mọi thứ bệnh tật đều là
do sự mất cân bằng âm – dương gây ra, và thức ăn chính là vị thuốc để điều chỉnh,
giúp cơ thể khỏi bệnh.
Quế: gia vị lấy từ vỏ quế, hiện diện rất nhiều trong các
món ngọt tráng miệng châu Âu, nhưng lại được dùng nhiều trong các món ăn mặn tại
châu Á. Trong mọi trường hợp thì quế là loại tương đối đắt tiền từ trước đến
nay. Quế giúp ngăn ngừa các bệnh tim mạch, trị các vấn đề về hô hấp, giảm đau
cơ khớp, cải thiện hệ miễn dịch.
Thì là: loại cây có thể dùng cả lá, hột hoặc củ rễ
để làm gia vị. Tuy có nguồn gốc từ các vùng Địa Trung Hải nhưng cây được người
Trung Quốc và Ấn Độ biết đến từ rất sớm. Thì là là vị thuốc hỗ trợ tiêu hóa,
giúp điều hòa thể trọng, bổ thận, trị đau bụng, đầy trướng bụng.
Ngoài năm loại gia vị
truyền thống nêu trên, còn rất nhiều cách kết hợp khác để tạo nên ngũ vị hương.
Một công thức thông dụng bao gồm nhục quế, hồ tiêu, đinh hương, tiểu hồi hương
và đại hồi. Một số bột ngũ vị hương bán trên thị trường sẽ có thêm bột ớt hay gừng.
Triết lý âm dương – ngũ
hành đã in sâu vào truyền thống văn hóa người Việt nói riêng và người phương
Đông nói chung. Đó là triết lý của sự cân bằng, đủ đầy, hài hòa, tượng trưng
cho tính cách nghề nông chất phác, thích yên bình, ổn định. Trong ẩm thực cũng
thế, người Việt chuộng tính hài hòa giữa các vị, mỗi vị một tí, tạo nên sự đậm
đà và dễ chịu hơn là quá nồng ở một vị riêng.
Theo BS. CKII. Huỳnh Tấn
Vũ/ ĐS&SK
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét