Mon, 06/03/2023 -Trầm
Thiên Thu
KHÁT VỌNG SỐNG
Chúa
Xin Thế Gian Nước Giải Khát
Ngài
Tặng Nhân Loại Nguồn Trường Sinh
Văn sĩ triết gia Denis
Diderot (1713-1784, Pháp) xác định: “Il n'y a qu'une seule passion, la passion
pour le bonheur.” – Chỉ có một khát khao, khát khao hạnh phúc. Chỉ những người
sống mới có khát khao đó. Thiên Chúa tạo dựng con người vì Ngài muốn họ sống hạnh
phúc mãi mãi, thậm chí hạnh phúc ngay ở thế gian này. Khát vọng sống – cả thể
lý và tinh thần – là khát vọng chính đáng, vừa mạnh mẽ vừa sống động.
Cuộc sống có nhiều khát vọng
liên quan tinh thần và thể lý. Về tâm linh, Thánh LM TS Thomas Aquinas
(1225-1274) soạn kinh nguyện chuẩn bị Thánh Lễ thế này: “Con bệnh tật tìm đến
Bác Sĩ Sự Sống, con không tinh tuyền tìm đến Giếng Nước Lòng Thương Xót, con mù
lòa tìm đến Ánh Sáng chói lọi đời đời, con nghèo nàn và thiếu thốn tìm đến Chúa
Tể Càn Khôn.” Ước gì chúng ta cũng có “cơn khát” như thánh nhân!
Trình thuật Ga 4:5-42 nói
về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và một phụ nữ Samari bên giếng nước. Chị khát
khao được sống thật và được Ngài ban cho loại nước trường sinh bất tử, uống vô
hết khát liền. Thánh sử Gioan kể: Một hôm, Chúa Giêsu đến thành Xykha thuộc xứ
Samari, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse và có giếng của ông
Giacóp. Ngài đi đường mỏi mệt nên ngồi ngay xuống bờ giếng, còn các môn đệ vào
thành mua thức ăn, vả lại lúc đó khoảng mười hai giờ trưa, nắng như lửa thiêu.
Lúc đó có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu xin chị chút nước uống.
Chị ngạc nhiên: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho
ông nước uống sao?”
Chị rất ngạc nhiên vì thời
đó người Do Thái không được giao thiệp với người Samari. Nhưng Chúa Giêsu vẫn
giao tiếp và nói: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với
chị: ‘Cho tôi chút nước uống’ thì hẳn chị ĐÃ xin, và người ấy ĐÃ ban cho chị nước
hằng sống.” Chúa Giêsu dùng thì quá khứ trong khi Ngài nói là hiện tại. Điều đó
cho thấy rằng những gì Ngài nói đều là sự thật, như Ngài xác định với tổng trấn
Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: LÀM CHỨNG CHO SỰ
THẬT.” (Ga 18:38)
Phụ nữ Samari vô danh thắc
mắc rằng Chúa Giêsu không có gầu, giếng lại sâu, làm gì có được nước hằng sống
mà cho. Chị không hiểu ý Ngài. Chị còn chứng minh rằng tổ phụ Giacóp với cả con
cháu và đàn gia súc cũng xài nước giếng này. Chúa Giêsu lại cười hiền và nói:
“Này chị Hai, ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không
bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên,
đem lại sự sống đời đời đấy.” Có lẽ lúc đó chị gãi đầu thầm nghĩ: “Lạ dữ
nghen!” Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, nhưng chắc hẳn chị cảm thấy tin
tưởng “Anh Chàng” này nói thật, vì thấy có gì đó rất kỳ lạ. Thế là chị nói
ngay: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến
đây lấy nước.”
Chẳng nói có cho hay
không, nhưng Ngài bảo chị gọi chồng ra. Chị bảo rằng chị chỉ có một mình thôi,
không chồng con chi cả. Ngài bảo chị nói đúng. Ngài nói thẳng rằng chị đã có
năm đời chồng, ngay cả người hiện đang sống với chị cũng không phải là chồng.
Chắc đó là dạng “sống thử” hoặc “nửa nhân ngãi, nửa vợ chồng” đây. Chị hết hồn
hết vía vì thấy Chúa Giêsu không phải thầy bói mà nói trúng phoóc. Ngại thì ngại
nhưng chị cũng phải công nhận ngay trước mặt Ngài: “Ông ơi, tôi thấy ông thật
là một ngôn sứ.” Ngài còn bảo không được thờ phượng Thiên Chúa trên núi nữa, mà
Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. Kể ra chị Hai ngoại
giáo này cũng dễ tiếp thu “cái mới” đấy. Thật tuyệt vời!
Vào thẳng vấn đề, Chúa
Giêsu nói: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha,
không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không
biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do
Thái. Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng
đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm
những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng
Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Chị Hai này hay thiệt, xem chừng
giỏi Kinh Thánh nữa, vì chị nghe Chúa Giêsu nói vậy mà không thắc mắc mà còn
xác định: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ
loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Đúng vậy. Giỏi thật. Chúa Giêsu không từ chối:
“Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” Chị thật diễm phúc vì được
gặp và nói chuyện với chính Đức Giêsu Kitô, Đấng phải đến thế gian.
Ngay lúc đó, các môn đệ
đi mua đồ ăn về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Thầy nói chuyện với một phụ nữ
nhưng không ai dám hỏi gì. Sau đó, người phụ nữ phấn khởi đến nỗi bỏ vò nước lại,
chạy vào thành và bảo người ta đến xem một “Người Lạ” rất giống Đấng Kitô. Chị
này tự nguyện làm nhân chứng sống. Thế là dân thành tuôn ra như trẩy hội. Được
tận mắt thấy một “Dị Nhân” độc nhất vô nhị là cơ hội ngàn vàng. Vừa lạ lùng vừa
thú vị. Chắc là ai cũng rất phấn khởi vì thỏa mãn niềm khát khao lâu nay.
Chắc là ai cũng đói vì trời
đã quá trưa, các môn đệ thưa: “Thưa Thầy, xin mời Thầy dùng bữa.” Nhưng Ngài
“bóng gió” với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.”
Các môn đệ lại gãi đầu và ngơ ngác nhìn nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy
rồi chăng?” Có thể họ tưởng Thầy ăn rồi. Các ông không biết Thầy nói về siêu
lương thực là “thi hành ý Chúa Cha và hoàn tất công trình cứu độ.” Phải vậy
thôi, trò Kitô hữu hơn thầy, bằng thầy cũng khá lắm rồi. (x. Mt 10:24-25)
Thánh sử Gioan cho biết rằng,
hôm đó có nhiều người Samari trong thành đã tin vào Đức Giêsu, vì lời chứng của
chị Hai Samari: “ÔNG ẤY NÓI VỚI TÔI MỌI VIỆC TÔI ĐÃ LÀM.” Và lời chứng đó đã có
hiệu quả ngay lập tức: nhiều người tìm đến với Ngài. Quả thật, chỉ Thiên Chúa mới
có thể THẤU SUỐT MỌI SỰ (1 Sb 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2
Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6;
Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6) nên Ngài biết trước
mọi sự.
Hôm đó, dân Samari xin
Ngài ở lại với họ, chắc hẳn Ngài rất vui nên đã ở lại đó hai ngày. Số người tin
lời Ngài gia tăng nhiều. Họ bảo chị Hai ngoại giáo: “Không còn phải vì lời chị
kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật
là Đấng cứu độ trần gian.” Không sao, chị Hai không hề buồn, chị chỉ muốn người
ta cũng tin như chị vậy. Chúng ta là những người được Chúa tuyển chọn, cách này
hay cách khác – giáo sĩ, tu sĩ, hội viên các hội đoàn,… Liệu chúng ta có cảm thấy
tự thẹn với chính mình? Thiên Chúa đã chọn chị Hai ngoại giáo làm chứng cho
Ngài.
Có nhiều dạng khát – cả
thể lý và tinh thần, với mức độ khác nhau. Cơn khát nào cũng cần được giải
khát. Khát là trạng thái thiếu nước, phải có nước để giải khát. Đồ uống cần gấp
hơn đồ ăn, vì người ta có thể nhịn đói lâu hơn nhịn khát. Chúa Giêsu đã nói:
“Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ
ấy là môn đệ của Thầy thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng
đâu.” (Mt 10:42) Điều nhỏ mà lợi to.
Rất cấp bách đối với cơn
khát thể lý, nhưng còn cấp bách và mãnh liệt hơn nhiều đối với cơn khát tâm
linh.
1. THÂN XÁC KHÁT
Trình thuật Xh 17:3-7 cho
biết hành trình về Đất Hứa. Suốt 40 năm đi qua hoang địa, dân khát nước nên đã
kêu trách ông Môsê: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì? Có phải là để
cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay
không?” Nắng đồng bằng đã khó chịu rồi, nắng cao nguyên cũng ghê gớm lắm, nắng
sa mạc thì hẳn là như lửa. Chịu không nổi cái nắng nóng nên dân muốn nổi loạn,
ông Môsê cũng “ngán” lắm nên kêu xin Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây
giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!”
Không cần biết phải trái
thế nào, dễ bị ném đá chết như chơi, vì đá luôn có sẵn, muốn “chơi” thì cứ lấy
đá chọi thẳng tay ngay. Đáng quan ngại lắm. Nghe ông Môsê kêu cầu, Đức Chúa
phán: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Israel; cầm lấy
cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng
kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khôrếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng
đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống.” Thế thì còn gì bằng! Ông Môsê nghe vậy và
làm ngay trước mắt các kỳ mục Israel. Điều kỳ diệu đã xảy ra. Ông đặt tên cho
nơi ấy là Maxa và Mơriva, nghĩa là THỬ THÁCH và GÂY SỰ, vì con cái Israel đã
dám gây sự và thử thách Đức Chúa mà nói: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay
không?” Đó là nghi ngờ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chúng ta cũng đã có lúc “đặt
vấn đề” về đức tin như vậy, mặc dù chúng ta không nói ra.
Có phải dân Israel “uống
thuốc liều” quá chỉ định nên dám gây sự và thử thách Chúa, kiểu “bán trời không
cần văn tự” chăng? Chúng ta cũng chẳng hơn gì, có khi còn “liều” hơn họ. Thật vậy,
khi gặp gian nan thử thách theo kiểu “mắc nối tiếp” như các bóng điện nối nhau,
dạng “họa vô đơn chí,” chắc là cũng đã có những lần chúng ta nghi ngờ về Thiên
Chúa: “Thực sự có Thiên Chúa hay không?” Có những người còn liều hơn – kể cả
người Công giáo, đã từng dám thốt lên: “Trời không có mắt, trời mù!” Đúng là
người ta “liều” hơn dân Israel xưa!
Mùa nào cũng là mùa sám hối,
ngày nào cũng là Mùa Chay, khi nào cũng là lúc tĩnh tâm, không trong Mùa Chay,
Mùa Vọng, hoặc dịp đặc biệt. Đó là sẵn sàng dầu đèn như 10 cô trinh nữ khôn
ngoan đi đón chàng rể. (x. Mt 25:1-13) Giáo Hội ấn định Mùa Chay như tiếng
chuông cảnh báo để “đánh động” mạnh hơn, nhất là đối với ai còn “ngủ mê,” do đó
mà có nghiêm luật: Xưng tội mỗi năm ít là một lần và rước lễ trong Mùa Phục
Sinh.
Khi nhìn vào thiên nhiên,
người ta khả dĩ nhận biết Thiên Chúa. Đơn giản nhất là không khí. Không có
không khí thì không gì có thể sống được. Cái cực tiểu nhưng lại là cực đại.
Không có ánh nắng thì ai cũng như mù vậy. Vì thế, hãy nghe lời Thánh Vịnh gia mời
gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào
trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.” (Tv
95:1-2) Thánh Vịnh gia nói thêm: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước
tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta
là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.” (Tv 95:6-7a)
Trong Mùa Chay, chúng ta
thường xuyên được nhắc nhở câu này: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng
Chúa phán: Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc,
nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những
việc Ta làm.” (Tv 95:7b-9) Thánh Phaolô cũng đã xác định: “Đây thời kỳ Chúa thi
ân, Thời gian cứu độ dành phần cho ta.” (2 Cr 6:2) Khi đề cập Mơriva và Maxa tức
là nhắc nhở chúng ta “đừng gây sự và thử thách Thiên Chúa.”
2. TÂM HỒN
KHÁT
Có vẻ đơn giản mà phức tạp:
Tin là chấp nhận hay từ chối. Đức tin là một trong các “mối phúc ngoại lệ,” [*]
và có thể làm người ta nên công chính. Thánh Phaolô cho biết: “Một khi đã được
nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào
hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn
tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5:1-2)
Thánh Phaolô giải thích rất
dễ hiểu: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã
đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng
ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo,
thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì
người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà
Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó
là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5:8) Điều gì cũng được diễn
tả rất chi tiết và mạch lạc khi đọc các thư của Thánh Phaolô.
Quả thật, tình yêu của
Thiên Chúa quá vĩ đại, quá cao thượng, và đó là Lòng Thương Xót. Cũng đã có lần
Chúa Giêsu minh định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người
đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13) Tha thứ đã khó rồi chứ
nói chi chết thay ai đó. Đó là dạng khát “không giống ai,” rất khác lạ. Sẵn
sàng tha thứ là làm thánh. Thế nhưng đâu mấy ai làm được. Phàm nhân thật yếu đuối!
Mỗi khi Mùa Chay về,
chúng ta còn nghe văng vẳng tiếng kêu thảm thiết của Chúa Giêsu từ trên Thập
Giá trên Đồi Sọ năm xưa: “Tôi khát!” (Ga 19:28) Cơn khát của Chúa Giêsu liên
quan cả thể lý lẫn tinh thần, đặc biệt là “khát tình.” Ngài khát yêu thương, muốn
thương xót mọi người, nhưng người ta làm ngơ. Ngài còn có cái khát khác thường
là “khát đau khổ,” Ngài bằng lòng uống “chén đắng,” uống vui vẻ và uống say
sưa. Thế mà chúng ta lại nhẫn tâm đối xử tệ bạc với Ngài, chẳng khác bọn thủ ác
cho Ngài nếm giấm chua, (Ga 19:29) và ứng nghiệm lời Thánh Vịnh: “Thay vì đồ
ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua.” (Tv 69:22)
Trong Mùa Chay, ước gì mỗi
người đều biết thực sự khát khao điều công chính, luôn tin kính Đức Kitô y như
chị Hai Samari và dân thành Xykha, đồng thời luôn xác tín: “Linh hồn con khao
khát Chúa Trời hằng sống.” (Tv 42:3) Chị Hai Samari và dân thành Xykha đã tin
vào “Người Lạ” là điều hợp lý và đúng ý Chúa. Chúng ta đều là tội nhân bất xứng,
không đáng tiếp cận Ngài, nhưng Ngài vẫn đại lượng: “Nếu như Ngài chấp tội, nào
có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3) Tất nhiên chúng ta cũng phải “hỷ xả” với
bất kỳ ai.
Một trong những điều liên
quan khát vọng sống là ước mơ. Văn thi sĩ Kahlil Gibran (1883-1931, Liban) nói:
“Hãy tin tưởng vào những ước mơ, vì bên trong chúng ẩn chứa cánh cổng vào cõi
vĩnh hằng.”
Lạy Thiên Chúa, xin Ngài
là tất cả của đời chúng con, xin cho chúng con luôn biết khát khao sống – sống
tạm đời này và nhất là SỐNG VĨNH HẰNG bên Ngài, sẵn sàng đập bỏ chiếc bình tội
lỗi bên giếng đời, dám đốt chiếc áo tội lỗi để mặc chiếc tinh tuyền, xin Thần
Khí Ngài tác động để chúng con mau mắn đáp lại lời kêu khát của Chúa Giêsu hiện
thân nơi những con người bé nhỏ trên đường lữ hành. Chúng con cầu xin nhân danh
Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[*] Ngoài Tám Mối Phúc
“nòng cốt” (Mt 5:3-11; Lc 6:20-23) còn nhiều các “mối phúc” khác được đề cập
trong Kinh Thánh: Lc 7:22-23; Lc 11:28; Lc 14:15; Ga 20:29; Rm 4:7-8; Rm 14:22;
Tv 1:1-2; Tv 33:12; Tv 112:5-6; Tv 106:3; Tv 119:1-2; Tv 144:15; Tv 146:5; Cn
3:13; Cn 8:32; Cn 8:34; Hc 28:19; G 5:17; Is 56:2; Gr 17:7; Gc 1:12; Gc 5:11;
Kh 1:3; Kh 19:9; Kh 20:6.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét