ĐIỀU ƯỚC MUỘN MÀNG
(Chúa Nhật XXVI TN, năm C)
Không ai lại không có
mong muốn hoặc mơ ước, dù chỉ là những mơ ước bình thường. Vì không có, vì thiếu
hoặc vì ưa thích cái gì đó nên chúng ta mơ ước. Mơ ước cũng có thể xấu hoặc tốt.
Cẩn tắc vô ưu!
Voltaire (1694-1778, tên
thật là François-Marie Arouet, nhà thần luận kiêm triết gia người Pháp) xác định:
“Chúng ta không thể mong ước điều mình không biết”. Câu nói đơn giản mà chí lý.
Thật vậy, không ai lại mơ ước cái mà mình không hề biết nó thế nào. Rõ ràng điều
ước đó là ngu xuẩn!
Mơ ước phải LỚN HƠN nỗi sợ
hãi. Có vậy chúng ta mới dám làm những gì cần thiết để đạt được mơ ước – dĩ
nhiên ở đây chỉ đề cập mơ ước tốt lành mà thôi.
Mơ ước và số phận có hệ với
nhau theo chuỗi lô-gích: Có suy nghĩ mới có mơ ước, mơ ước nên cần nói ra, lời
nói sẽ dẫn tới hành động, hành động sẽ tạo nên thói quen, thói quen sẽ hình
thành tính cách, tính cách sẽ hóa thành số phận. Có thể “so sánh” số phận chính
là định mệnh.
Sống sao chết vậy. Đó là
một hệ lụy tất yếu. Sống xả láng, chơi bời trác táng, ăn uống thỏa cơn thèm, chắc
chắn có ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe. Món này ngon, nhưng không phải ai cũng
ăn được. Tâm linh cũng thế, cần kiêng cái này và phải cữ cái nọ!
Qua miệng ngôn sứ A-mốt,
Thiên Chúa đã cảnh cáo: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Sion, và sống an
nhiên tự tại trên núi Samari” (Am 6:1a). Thiên Chúa chúc dữ cho những người
nhàn hạ như vậy, còn người ta nói: “Nhàn cư vi bất thiện”. Thế thì nhàn đâu có
sướng, sướng đâu có thích, thích đâu có khỏe. Tại sao? Ăn ngon thì sinh bệnh, bị
bệnh thì không khỏe, không khỏe thì bao nhiêu tiền cũng chẳng mua được. Thảo nào
tiền nhân đã ví von chí lý: “Sức khỏe là vàng”. Loại vàng này còn quý hơn loại
vàng ròng hoặc vàng “bốn số chín” đấy!
Phong cách của những người
sống xả láng được Kinh Thánh mô tả thế này: “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả
ngớn trên trường kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng.
Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đa-vít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. Chúng uống
rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà
Giuse sụp đổ! Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày.
Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (Am 6:4-7). Và hệ lụy tất yếu cũng đã xảy
ra. Đối với cuộc đời của chúng ta cũng vậy, điều gì đến cũng PHẢI đến – đã đến,
đang đến hoặc sẽ đến! What will be will be – Que sera sera!
Về phương diện xã hội,
người ta thường phân chia thành ba giai cấp: thượng lưu, trung lưu, và hạ lưu.
Tóm gọn và đơn giản hóa, chúng ta có thể chia làm hai giới: giàu và nghèo. Người
ta chỉ thích người giàu, không ai thích người nghèo – vì sợ “hãm tài”. Nhưng
Thiên Chúa lại trái ngược và đối lập với chúng ta.
Thiên Chúa như thế nào?
Tác giả Thánh Vịnh cho biết rõ về phong cách của Ngài: “Thiên Chúa xử công minh
cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù
tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa
yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người
nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:7-9).
Đôi khi người ta tự mâu
thuẫn, họ biết rõ điều gì đó tốt lành và đáng mơ ước, thế nhưng người ta lại
không làm. Chẳng hạn, ai cũng biết việc vận động thể lý là điều cần thiết để sống
khỏe nhưng có mấy ai kiên trì áp dụng? Đến lúc đuối sức rồi mới mơ ước. Muộn rồi!
Tài năng thiên phú cũng cần được trau dồi, phải khổ luyện không ngừng.
Cách sống tâm linh cũng
tương tự, tức là cũng phải không ngừng vận động – tránh điều xấu, làm điều tốt.
Nói với Timôthê, ông Phaolô khuyên nhủ thiết tha: “Phần anh, hỡi người của
Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người công chính, đạo
đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà. Anh hãy thi
đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời;
chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã nói lên lời
tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng. Trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban
sức sống cho mọi loài, và trước mặt Đức Kitô Giêsu là Đấng đã làm chứng trước
toà tổng trấn Phongxiô Philatô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp” (1 Tm 6:11-13).
Đó cũng là lời khuyên dành cho mỗi chúng ta.
Ông Phaolô truyền lệnh
cho Timôthê, đồng thời cũng là lời giải thích và xác định: “Hãy tuân giữ điều
răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện. Đấng sẽ cho Đức Kitô tỏ hiện vào đúng thời
đúng buổi, là Chúa Tể vạn phúc vô song, là Vua các vua, Chúa các chúa. Chỉ mình
Người là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một
người nào đã thấy hay có thể thấy. Kính dâng Người danh dự và uy quyền đến muôn
đời” (1 Tm 6:14-16).
Thiên Chúa giàu có nhất
nhưng tự nguyện trở nên nghèo khó nhất, nhờ đó mà chúng ta được giàu sang.
Thiên Chúa dũng mãnh nhất nhưng tự nguyện trở nên yếu đuối nhất, nhờ đó mà
chúng ta được vững mạnh. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối thì Ngài sẽ ban sức
mạnh cho chúng ta, khiêm nhường nhận biết mình tội lỗi thì Thiên Chúa sẽ thứ
tha, khiêm nhường nhận biết mình nghèo hèn thì Ngài sẽ làm cho chúng ta giàu
sang.
Giàu không có tội, nhưng
có thể là mối nguy. Nghèo chưa hẳn là phúc nếu không trong sạch, và nghèo vẫn
có thể là mối nguy nếu trộm cướp vì viện cớ là mình nghèo. Thái quá hóa bất cập.
Tác giả sách Châm Ngôn đã khôn ngoan cầu nguyện: “Xin đừng để con túng nghèo,
cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy
dư, con sẽ khước từ Ngài. Nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh
Thiên Chúa của con” (Cn 30:8-9).
Trình thuật Lc 16:19-31
nói về dụ ngôn “Ông Nhà Giàu và Anh Ladarô Nghèo Khó”. Dụ ngôn cho biết có một
người giàu sang, mặc toàn đồ “hàng hiệu”, đi xe hơi xịn, ở biệt thự sang trọng,
và ngày nào cũng tiệc tùng linh đình. Ngoài cổng biệt thự nhà ông có anh chàng
Ladarô nghèo khó, mụn nhọt đầy mình, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông
nhà giàu rớt xuống mà ăn cho no cũng không được. Vừa khổ vừa đói đã đành, đằng
này lại có mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc trên thân thể của anh ta. Nghèo tới
tận cùng bảng số, nghèo đến nỗi cũng chẳng có mồng tơi mà rớt!
Sinh ký, tử quy. Thế rồi
cả người nghèo và người giàu đều chết. Người nghèo được thiên thần đem vào lòng
ông Ápraham, còn người nhà giàu phải vào chốn khổ hình đời đời. Tội của ông
không phải là giàu sang phú quý, mà là tội phung phí tiền bạc vào những lạc thú
trần gian vô bổ, là tội không biết xót thương người nghèo. Sướng trước rồi thì
bây giờ phải nhường cái phúc cho người khác. Đó là hệ lụy công bình mà thôi!
Đang khi chịu cực hình từ
dưới âm phủ, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy
anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta xin tổ phụ Ápraham thương xót mà
sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi để làm mát ông, vì
ông bị lửa thiêu đốt khổ lắm. Khổ rồi mới biết sợ, nhưng sự hối hận đã quá muộn
màng!
Ông Ápraham phân tích chi
tiết: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi; còn
Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi
đây, còn con phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một
vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó
có qua bên chúng ta đây cũng không được”. Hai cuộc đời có hai cách sống khác
nhau, thế nên hệ quả cũng hoàn toàn khác nhau.
Cầu cứu cho mình không được,
ông nhà giàu bèn cầu cứu cho thân nhân. Ông xin Tổ phụ Ápraham sai anh Ladarô đến
nhà ông báo hung tin cho năm người anh em của ông mà chấn chỉnh cách sống, kẻo
họ lại cũng sa vào chốn cực hình như ông. Nhưng ông Ápraham đáp: “Chúng đã có
Môsê và các Ngôn Sứ thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. Ông nhà giàu nói rằng họ
sẽ không chịu nghe, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ thì họ sẽ ăn năn
sám hối. Lắm chuyện, lắm lời, lắm lý lẽ quá!
Ông Ápraham xác định:
“Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại, họ
cũng chẳng chịu tin”. Đúng vậy, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, thấy quan tài rồi
thì không kịp đổ lệ nữa. Có biết bao lời cảnh báo, nhưng người ta chỉ sợ khi mới
nghe, vài ngày là quên ngay, rồi đâu vẫn vào đấy!
Qua dụ ngôn này, chúng ta
thấy Thiên Chúa đề cao lòng trắc ẩn, đề cao đức ái, vì đức ái là đức mến – một
trong ba nhân đức đối thần (Tin – Cậy – Mến). Đức ái cao trọng hơn cả (1 Cr
13:13), vì đức mến tồn tại ở cả đời này và đời sau – đức tin và đức cậy không
còn ở đời sau nữa.
Đức ái còn quan trọng bởi
vì chúng ta “làm gì cho những người bé nhỏ là làm cho chính Thiên Chúa” (Mt
25:40). Mẹ Thánh Teresa Calcutta đã thực hiện như vậy. Mẹ nói về cách yêu
thương: “Quan trọng không phải chúng ta cho đi bao nhiêu, mà là chúng ta dành
bao nhiêu sự yêu thương để cho đi. Không phải tất cả chúng ta đều làm được những
điều vĩ đại. Nhưng chúng ta có thể làm những điều nhỏ nhoi với tình yêu vĩ đại”.
Người Việt chúng ta cũng có cách nói tương tự: “Của cho không bằng cách cho”.
Hai con người nhưng có ba
điều ước: [1] Ladarô mơ ước chút thực phẩm thừa mà không được, [2] người nhà
giàu mơ ước những giọt nước để làm dịu cơn nóng bức mà không được, [3] người
nhà giàu mơ ước có người chết về báo cho thân nhân nhưng cũng không được. Điều
đáng lưu ý là mơ ước [2] và [3] của người nhà giàu, vì những điều ước của ông
ta quá muộn màng rồi, không thể được nữa!
Lạy Thiên Chúa,
xin giúp con biết mền yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, xin làm cho con trở
nên ánh sáng của Ngài và khí cụ bình an của Ngài, xin biến ước muốn tốt lành của
con thành hiện thực để vinh danh Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng
cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét