Tiểu sử chính thức của Mẹ Têrêsa thành Calcutta
Thứ
sáu - 02/09/2016 - J.B. Đặng Minh An dịch9/2/2016
Lúc 11 giờ 30 sáng thứ
Sáu 2 tháng Chín, Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã có cuộc họp báo giới thiệu với các
ký giả những chi tiết liên quan đến Lễ Tuyên Thánh cho Mẹ Têrêsa vào ngày Chúa
Nhật 4 tháng Chín.
Dưới đây là tiểu sử chính
thức của Mẹ Têrêsa thành Calcutta sẽ được Đức Hồng Y Angelo Amato, là Tổng trưởng
bộ Tuyên Thánh, đọc trước Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ tại quảng trường
Thánh Phêrô lúc 10h25 sáng Chúa Nhật.
Têrêsa Calcutta, nhủ danh Gonxha Bojaxhiu Agnes, sinh tại Skopje,
Albania, ngày 26 Tháng Tám năm 1910, là
người con thứ năm và cũng là con út của ông bà Nikola và Drane Bojaxhiu. Cô đã
được rửa tội vào ngày hôm sau và được rước lễ lần đầu khi lên năm tuổi rưỡi. Từ
thời điểm đó trở đi, tâm hồn cô tràn ngập tình yêu dành cho các linh hồn.
Năm 1928, với mong muốn được phục vụ như
là một nhà truyền giáo, cô bước vào Tu hội Chị em Loreto ở Ireland.
Năm 1929, cô đến Ấn Độ, và khấn lần đầu vào tháng 5 năm 1931 và khấn trọn vào
tháng Năm năm 1937. Trong suốt hai mươi năm sau đó, cô đã giảng dạy ở Ấn Độ, và
được nhiều người biết đến vì lòng bác ái, lòng nhiệt thành, sự tận tâm và sự
vui tươi.
Ngày 10 tháng 9 năm 1946, cô nhận được từ Chúa Giêsu lời mời gọi
“để lại tất cả mọi thứ phía sau và phục vụ Ngài nơi những người nghèo nhất
trong số những người nghèo”. Năm
1948, cô nhận được sự cho phép của Giáo Hội để bắt đầu sứ vụ tông đồ của mình
trong các khu ổ chuột của thành phố Calcutta. Dòng Thừa Sai Bác Ái đã trở thành
một Tu Hội của giáo phận vào ngày 07 tháng 10 năm 1950, và đã được nâng lên
thành một Tu Hội giáo hoàng vào ngày 1 tháng 2 năm 1965. Đặc sủng riêng của Tu
Hội là để thỏa mãn cơn khát vô hạn của Chúa Giêsu đối với tình yêu và đối với
các linh hồn bằng cách hoạt động cho sự cứu rỗi và sự thánh thiện của những người
nghèo nhất trong những người nghèo.
Để mở rộng sứ mệnh tình
yêu này, Mẹ Têrêsa đã mở thêm các nhánh khác bao gồm dòng các Tu huynh Thừa Sai
Bác Ái, vào năm 1963, dòng các nữ tu sĩ chiêm niệm vào năm 1976, dòng các Tu
huynh chiêm niệm (1979), và dòng các Cha Thừa Sai Bác Ái vào năm 1984, cũng như
các Hiệp hội các cộng tác viên, Hiệp hội các cộng sự viên đồng lao cộng khổ, và
phong trào Corpus Christi cho các linh mục.
Tại thời điểm Mẹ Têrêsa qua đời vào ngày 05 tháng Chín năm 1997, dòng có đến 3,842 chị em làm việc tại 594
nhà ở tại 120 quốc gia. Mặc dù, phải chịu đựng một kinh nghiệm đau đớn của bóng
tối nội tâm, Mẹ Têrêsa đã đi khắp mọi nơi, có liên quan, như Đức Maria trong
trình thuật Thăm Viếng [bà Elizabeth], để truyền bá tình yêu của Chúa Giêsu
trên khắp thế giới. Do đó, Mẹ đã trở thành một biểu tượng của dịu dàng và tình
yêu thương xót của Thiên Chúa cho mọi người, đặc biệt là đối với những người
không được yêu thương, bị khước từ và bỏ rơi. Từ trên Thiên Đàng, Mẹ tiếp tục
“thắp lên một ánh sáng cho những người sống trong bóng tối trên trái đất này.”
Phụ lục: Dưới đây là bản tiểu
sử của Mẹ Têrêsa, dài hơn, đã được Đức Hồng Y José Saraiva Martins, Tổng Trưởng
Bộ Tuyên Thánh (1998-2008) đọc trước Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong lễ
tuyên phong Chân Phước ngày 19 tháng 10 năm 2003.
“Về huyết thống thì tôi
là người Albany. Theo tính cách công dân thì tôi là một người Ấn Độ. Về phương
diện đức tin thì tôi là một nữ tu Công Giáo. Theo ơn gọi của mình thì tôi thuộc
về thế giới. Với tâm hồn của mình thì tôi hoàn toàn thuộc về Trái Tim Chúa
Giêsu”.
Với một thân mình nhỏ
con, và một đức tin sắt đá, Mẹ Têrêsa Calcutta được ủy thác cho sứ mạng truyền
bá tình yêu khát khao của Thiên Chúa cho nhân loại, nhất là cho thành phần
nghèo nhất trong các thành phần nghèo khổ. “Thiên Chúa vẫn yêu thương thế gian
và Ngài gửi các chị em và tôi đến với người nghèo như là tình yêu Ngài và lòng
xót thương của Ngài”. Mẹ là một tâm hồn đầy tràn ánh sáng Chúa Kitô, cháy lửa mến
yêu Người và bừng bừng một ước mong duy nhất đó là “làm giảm bớt cơn khát yêu
thương các linh hồn của Người”.
Vị sứ giả sáng láng này của
tình yêu Thiên Chúa chào đời ngày 26/8/1910 ở Skopje, Albania, một thành phố tọa
lạc ở giao điểm lịch sử Balkan. Mẹ là con út của ông bà Nikola và Drane
Bojaxhiu, được rửa tội với tên là Gonxha Agnes, được Rước Lễ Lần Đầu lúc 5 tuổi
rưỡi và chịu phép Thêm Sức vào tháng 11/1916. Từ ngày Rước Lễ Lần Đầu, tình yêu
các linh hồn đã triển nở trong tâm hồn bé. Bé mất cha bất ngờ khi mới lên tám.
Bà mẹ góa kiên cường nuôi con cái, và đã ảnh hưởng rất nhiều đến tính nết và ơn
gọi của bé. Ngoài ra, đời sống đạo của bé cũng được nâng đỡ bởi vị linh mục
Dòng Tên coi xứ Thánh Tâm là nơi bé sinh hoạt nữa.
Vào năm 18 tuổi, được
thúc đẩy bởi ý định trở thành một nhà truyền giáo, cô Gonxha đã từ giã gia đình
vào tháng 9/1928 để dâng mình cho Chúa trong Dòng Trinh Nữ Maria, tức tu hội Nữ
Tu Loreto ở Ái Nhĩ Lan. Tại đây chị được đặt tên là Nữ Tu Maria Têrêsa theo
Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Vào tháng 12 cùng năm, chị lên đường đi Ấn Độ,
tới Calcutta ngày 6 tháng Giêng năm 1929. Sau khi khấn lần đầu vào tháng
5/1931, Nữ Tư Têrêsa được chỉ định đến cộng đồng Loreto Entally ở Calcutta và dạy
học ở Trường Thánh Maria phái nữ. Vào ngày 24/5/1937 chị khấn trọn, để trở
thành, như chị nói, “hôn thê của Chúa Giêsu” cho “đến muôn đời bất tận”. Từ đó
trở đi, chị được gọi là Mẹ Têrêsa. Mẹ tiếp tục dạy học ở Trường Thánh Maria và
làm hiệu trưởng của trường này vào năm 1944. Là một con người chìm đắm trong cầu
nguyện và hết sức yêu thương chị em dòng cũng như học sinh của mình, 20 năm sống
trong dòng Loreto, Mẹ cảm thấy thật là hạnh phúc. Nổi tiếng là bác ái, vị tha
và can đảm, chịu khó và có óc tổ chức, Mẹ đã sống trọn cuộc sống tận hiến của
mình cho Chúa Giêsu, giữa chị em đồng tu, một cách trung thành và vui vẻ.
Vào ngày 10/9/1946, trên
chuyến xe lửa từ Calcutta tới Darjeeling để dự tuần cấm phòng hằng năm, Mẹ
Têrêsa đã được “ơn linh hứng”, một “ơn gọi trong ơn gọi” của Mẹ. Hôm ấy, Mẹ đã ở
trong một trạng thái mà Mẹ không bao giờ giải thích được, là cơn khát yêu
thương các linh hồn của Chúa Giêsu chiếm đoạt tâm hồn Mẹ, và ước muốn làm nguôi
cơn khát của Người trở thành mãnh lực chi phối cuộc sống của Mẹ. Những tháng
ngày sau đó, qua những thị kiến nội tâm, Chúa Giêsu đã tỏ cho Mẹ biết ý của
Trái Tim Người muốn có “những chứng nhân tình yêu”, là những người “chiếu tỏa
tình yêu của Người trên các linh hồn”. Người đã nài xin Mẹ: “Hãy đến để làm ánh
sáng của Cha. Cha không thể đi một mình”.
Người đã tỏ cho Mẹ biết
cái đau đớn của Người nơi thành phần nghèo khổ bị bỏ rơi, niềm sầu thương của
Người ở chỗ vô tri của họ và niềm khát vọng được họ yêu mến. Người đã xin Mẹ
Têrêsa hãy thành lập một cộng đoàn tu trì, Dòng Thừa Sai Bác Ái, dấn thân phục
vụ thành phần nghèo nhất trong các người nghèo. Mẹ mất gần hai năm trời để trắc
nghiệm và phân định trước khi bắt đầu khởi sự. Vào ngày 17/8/1948, lần đầu tiên
Mẹ mặc bộ sari trắng viền xanh dương và bước qua cổng tu viện Loreto thân yêu để
tiến vào thế giới người nghèo.
Sau một khóa huấn luyện
ngắn với Các Nữ Tu Thừa Sai Y Khoa ở Patna, Mẹ Têrêsa trở về Calcutta và tìm một
nơi cư trú tạm thời với Các Sư Tỷ Nghèo. Vào ngày 21/12 lần đầu tiên Mẹ đi đến
những khu nhà ổ chuột. Mẹ đã viếng thăm các gia đình, rửa các vết ghẻ lở cho một
số trẻ em, chăm sóc cho một người già nằm bệnh trên đường phố và thuốc men cho
một người đàn bà đang chết đói và bị lao phổi. Mẹ bắt đầu mỗi ngày bằng việc rước
lấy Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể và rồi lên đường, tay cầm tràng hạt, để
tìm kiếm và phục vụ Ngài nơi “thành phần không được chú ý tới, không được yêu
thương, không được chăm sóc”. Sau mấy tháng, Mẹ được những học sinh của Mẹ trước
đó, từng người một, đến tham gia cộng tác với Mẹ.
Ngày 7/10/1950, hội dòng
mới các Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã được chính thức thành lập tại tổng giáo phận
Calcutta. Vào đầu thập niên 1960, Mẹ Têrêsa bắt đầu gửi các Nữ Tu của dòng đến
các vùng khác ở Ấn Độ. Sắc Lệnh Ca Ngợi do Đức Thánh Cha Phaolô VI ban gửi cho
hội dòng của Mẹ đã khuyến khích Mẹ mở một nhà ở Venezuela. Chẳng bao lâu sau những
nhà khác được thành hình ở Rôma và Tanzania, rồi dần dần ở hết mọi lục địa. Bắt
đầu từ năm1980 và liên tục qua thập niên 1990, Mẹ Têrêsa đã mở những nhà ở hầu
hết mọi quốc gia cộng sản, bao gồm cả ở Khối Sô Viết trước đây, Albania và
Cuba.
Để đáp ứng hơn nữa cho cả
nhu cầu về thể lý cũng như thiêng liêng, năm 1963 Mẹ Têrêsa đã lập hội dòng Các
Tu Huynh Thừa Sai Bác Ái, năm 1976 ngành chiêm niệm cho các Nữ Tu, năm 1979
ngành Các Tu Huynh Chiêm Niệm, và năm 1984 Các Cha Thừa Sai Bác Ái. Tuy nhiên,
ơn linh hứng của Mẹ không giới hạn vào những ai theo đuổi ơn gọi tu trì mà
thôi. Mẹ đã thành lập tổ chức Đồng Cộng Tác Viên của Mẹ Têrêsa cũng như Đồng Cộng
Tác Viên Phục Vụ Bệnh Nhân và Đau Khổ, những người thuộc nhiều tín ngưỡng và quốc
tịch được Mẹ chia sẻ tinh thần cầu nguyện của Mẹ, tinh thần giản dị đơn sơ của
Mẹ, tinh thần hy sinh của Mẹ và tinh thần tông đồ thực hiện những việc làm yêu
thương khiêm tốn của Mẹ. Tinh thần này sau đó đã tác động nên Các Giáo Dân Thừa
Sai Bác Ái. Để đáp lại những lời yêu cầu của nhiều linh mục, vào năm 1981, Mẹ
Têrêsa cũng đã bắt đầu Phong Trào Chúa Kitô cho Các Linh Mục như là một “đường
lối thánh thiện nhỏ bé” cho những vị muốn tham dự vào đặc sủng và tinh thần của
Mẹ.
Trong những năm phát triển
nhanh này, thế giới bắt đầu chú ý tới Mẹ Têrêsa và công việc Mẹ đã khởi công thực
hiện. Nhiều bằng tưởng thưởng, bắt đầu là Bằng Tưởng Thưởng Padmashiri của Ấn Độ
vào năm 1962, rồi Giải Nobel Hòa Bình năm 1979, đã tôn vinh công cuộc của Mẹ,
khiến cho giới truyền thông lưu ý và bắt đầu theo dõi các sinh hoạt của Mẹ. Mẹ
đã lãnh nhận cả các thứ giải thưởng và sự chú ý của thế giới “vì vinh quang
Thiên Chúa và nhân danh kẻ nghèo”.
Cuộc đời lao nhọc của Mẹ
Têrêsa chứng tỏ cho thấy niềm vui của yêu thương, sự cao cả và phẩm giá của hết
mọi con người, giá trị của những điều nhỏ mọn được trung thành thực hiện vì yêu
mến, và giá trị siêu việt của tình bằng hữu với Thiên Chúa. Thế nhưng còn một
phương diện anh hùng khác của người nữ cao cả này đã được tỏ lộ chỉ sau khi người
nữ ấy qua đời. Khuất kín trước mắt của tất cả mọi người, ngay cả với những người
thân cận nhất với Mẹ, đó là đời sống nội tâm của Mẹ, đầy những cảm nghiệm đau
thương sâu đậm liên lỉ của tình trạng bị xa lìa Thiên Chúa, thậm chí bị Ngài loại
bỏ, mà lại cứ càng khát vọng tình yêu của Ngài. Mẹ đã gọi cảm nghiệm nội tâm
này là “bóng tối tăm”. “Đêm tối đau thương” của linh hồn Mẹ, bắt đầu vào khoảng
thời gian Mẹ khởi sự hoạt động cho người nghèo và đã tiếp tục cho đến hết đời của
Mẹ, đã khiến Mẹ tiến đến chỗ được hiệp nhất sâu xa với Thiên Chúa hơn bao giờ hết.
Nhờ bóng tối tăm Mẹ đã tham dự một cách lạ lùng vào cơn khát của Chúa Giêsu,
vào khát vọng đau thương bừng cháy yêu thương của Người, và Mẹ đã tham dự vào nỗi
cô đơn hiu quạnh nội tâm của thành phần nghèo khổ.
Trong những năm cuối đời
của mình, mặc dù có những vấn đề trầm trọng về sức khỏe, Mẹ Têrêsa vẫn tiếp tục
coi sóc Hội Dòng của Mẹ và đáp ứng các nhu cầu của người nghèo cũng như của
Giáo Hội. Vào năm 1997, con số nữ tu dòng của Mẹ đã gần 4 ngàn và đã thiết lập
được 610 nhà ở 123 quốc gia trên thế giới. Vào 3/1997, Mẹ đã chúc lành cho vị
thừa kế mới được tuyển bầu của mình làm Bề Trên Tổng Quyền của Dòng Thừa Sai
Bác Ái, để rồi thực hiện nhiều chuyến xuất ngoại hơn. Sau khi gặp Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II lần cuối cùng, Mẹ đã trở về Calcutta và sống những tuần lễ cuối
cùng của mình tiếp đón các khách viếng thăm và chỉ dẫn cho các Nữ Tu của Mẹ.
Vào ngày 5/9, Mẹ đã chấm dứt cuộc sống trần gian. Mẹ đã được vinh dự chôn cất
theo quốc táng do chính quyền Ấn Độ thực hiện, và thi thể của Mẹ được an táng tại
Nhà Mẹ Dòng Thừa Sai Bác Ái. Mộ của Mẹ trở thành một địa điểm hành hương mau
chóng và là nơi cầu nguyện cho dân chúng thuộc đủ mọi tín ngưỡng, giầu cũng như
nghèo. Mẹ Têrêsa đã để lại chứng từ của một đức tin không lay chuyển, một niềm
hy vọng bất khuất và một đức ái phi thường. Việc Mẹ đáp lại lời kêu gọi của
Chúa Giêsu “hãy đến làm ánh sáng của Cha”, làm Mẹ trở thành một vị Thừa Sai Bác
Ái, thành “mẹ của người nghèo”, làm biểu hiện của lòng xót thương trước thế giới,
và là một chứng từ sống động cho tình yêu khát khao của Thiên Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét