Sep 11, 2016 - Chúa nhật 24 thường niên năm C
Thiên Chúa quyết tâm tìm lại những gì đã mất!
Các Bạn thân mến,
Thật thoải mái dễ chịu khi thời tiết bắt đầu vào Thu phải không các bạn? Nàng Thu đến, gió hiu hiu, và lá bắt đầu đổi mấu rồi từ từ rơi, nhưng cũng có nhửng lúc aò ào cuối theo chiều gió, quay quay tít như những chôn ốc rồi đổ nghiêng ngả, vật vã! Đẹp, đẹp quá phải không và cũng có khoảng khắc lãng mạng vô cùng! Tuy là giữa tháng Chín rồi, cũng chỉ có những cây nhỏ bé mới đón Thu. Những cơn gió heo may chưa thổi về, hoa lá còn tươi, xanh. Không như những năm trước, giờ này thì những chiếc lá đầu tiên đã đong đưa bay lượn rồi rơi xuống đường phố, công viên, ngõ ngách, sạch dơ... rồi từng đợt, từng đám lá vàng, đỏ, cũng bay nhanh để đáp xuống cho kịp... Nếu hoa lá nào cố tình không muốn, cứng cỏi đeo bám, không chấp nhận qui luật thiên nhiên thì cũng phải cằn cỗi chết khô, treo lơ lửng trên chính thân cây của mình!
Thế đấy, cuộc đời mỗi chúng ta cũng
không khác gì, có vui tuổi Xuân trẻ, thì cũng có héo hắt gió may, để rồi chuyển
sang Đông lạnh an nghỉ...
Biết tuân thủ luật Tạo hóa thì an vui
theo thời gian, xoay vần theo vũ trụ, nếu chống cự lại thì cũng chỉ là một kiếp"đi đâu loanh quanh cho đời mỏi
mệt" mà thôi, chẳng năng lực, quyền phép nào có thể thay đổi được luật
tuyệt đối của Trời Đất!
Không phải là tư tưởng bi quan, mà về
khía cạnh tin tưởng, tôn trọng Tạo Hoá. Ngài dựng mọi sự mọi loài để tôn vinh
Ngài và cho tạo vật cùng hưởng thụ. Vì thế những gì chống cự lại, chắc chắn sẽ
ở ngoài trật tự, rớt ra khỏi vòng quay của Ngài.
Nhưng Ngài không đành lòng bỏ qua
những gì đã mất, đã văng rớt ra khỏi vòng quay. Vì lòng nhân hậu, Ngài kiên
nhẫn chờ đợi, kêu gọi và đón nhận cả những sự phản bội trắng trợn, nếu biết
thực tâm quay về.
Tin Mừng Thánh Luca tuần này ghi lại
những dụ ngôn Đức Giesu nói trong một hoàn cảnh đặc biệt là các thầy dạy luật
và các đạo sĩ lấy làm vấp phạm khi thấy Ngài giao du với những kẻ mà người Do
Thái đạo đức gọi là tội nhân. Họ đã xếp những ai không tuân giữ các chi tiết tỉ
mỉ trong luật pháp vào chung một hàng, gọi là "Dân của đất ", tức hạng người cùng đinh, tội lỗi.
Chúng ta sẽ hiểu các dụ ngôn này đầy
đủ hơn khi nhớ lại rằng người Do Thái ngoan đạo thường nói:"Cả Thiên đàng mừng vui vì một tội nhận bị hủy diệt trước mặt
Thiên Chúa."
Một quan niệm độc ác, chỉ trừng phạt,
tiêu diệt tội nhân chứ không mong cho tội nhận được cứu thoát. Và đương nhiên
có một hàng rào ngăn cách triệt để về mọi phương diện giữa hai bên.
Nhưng Đức Giesu đã đến để xóa bỏ
những tư tưởng, những quan niệm không đúng ấy và phác họa, mặc khải cho chúng
ta về một Thiên Chúa nhân từ, đầy lòng xót thương qua ba dụ ngôn:
1. Về con chiên lạc:
-
Chăn chiên ở xứ Do Thái là một công việc khó khăn nguy hiểm.
-
Đồng cỏ hiếm hoi, cao nguyên ở giữa lại hẹp, chung quanh phần lớn là địa
thế với những khe trũng, dốc thẳng đứng và cảnh sa mạc hoang vu.
-
Khung cảnh không gian ấy dễ làm con chiên đi lạc, bởi không có giới hạn
cho những con chiên hiền lành đói ăn, khờ dại, không nghe được tiếng chủ, không
biết suy nghĩ, không biết định hướng...
-
Người chăn chiên lại phải chịu trực tiếp trách nhiệm về đoàn chiên mình
chăn. Vì đàn chiên lớn nhỏ gì thì cũng là cả một gia tài của một gia đình, một
làng xóm.
- Nếu
một con chiên bị mất thì người chăn chiên phải mang về nhà dấu vật làm bằng để
chứng tỏ con chiên đã bị tai nạn như thế nào.
- Người
chăn chiên có tài và kinh nghiệm, họ có thể theo dõi, tìm kiếm chiên lạc dễ
dàng. Còn không thì thật khó khăn.
- Khi
được biết một con chiên bị lạc, thì gần như mọi người đều chờ đợi lo lắng.
- Nếu tìm
được chiên lạc thì mọi người trong gia đình, làng xóm đều reo vui, cảm tạ với
nhau.
- Đây là hình ảnh Đức Giesu phác họa về Thiên
Chúa với cả triều thần vui mừng vì tìm được một tội nhận đã lạc mất.
2. Đồng quan bị mất:
a) Nghĩa bình thường:
-
Đồng quan nói ở đây là một đồng tiền rất nhỏ,
bằng kim loại.
-
Khung cảnh nhà người Do Thái tối tăm, chỉ có một cửa sổ tròn nhỏ. Nền
nhà bằng đất, được phủ cành cây lá khô hay các cây tre sậy khô lên trên.
-
Nên khi đồng tiền bị rơi rớt trong nhà, muốn tìm kiếm nó quả là khó
khăn.
-
Nhưng người đàn bà này vẫn kiên nhẫn, thắp đèn, lục tìm khắp mọi nơi cho
bằng được.
-
Vì dân chúng luôn sống trong cảnh thiếu hụt, đồng tiền nhỏ này tương
đương với giá công một ngày làm việc của công nhân. Có thể giúp gia đình nghèo
khổ no ấm một ngày!
b) Nghĩa cao đẹp hơn:
- Tại
Palestin, dấu hiệu của phụ nữ có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng mười
đồng tiền bạc nhỏ, được xâu lại với nhau.
- Những
đồng tiền ấy là sự dành dụm của người con gái, khi lấy chồng, được đeo trên
đầu, coi như là chiếc nhẫn cưới, là của riêng, rất đặc biệt, không ai có thể
chiếm đoạt.
-
Có lẽ đồng bạc bị đánh mất trong dụ ngôn là loại đồng bạc này.
-
Và bà đã tìm kiếm như tìm cái nhẫn cưới bị đánh rơi.
-
Vì thế chúng ta hiểu được sự vui mừng to lớn của bà khi tìm lại được
đồng bạc bị mất.
-
Bởi đồng bạc này có giá trị như một tài sản, hơn hẳn cả tiền bạc.
Theo nghĩa nào thì đồng tiền bị mất cũng không
phải lỗi của nó, mà do người đàn bà sơ hở, thiếu cẩn thận...Nên niềm vui này cũng
thật đáng để mọi người cùng chung vui với bà.
3. Người con hoang đàng:
a) Giá trị của từng con
người:
- Người Pharisêu và các kinh sư cho rằng kẻ tội
lỗi là hạng vất đi. Nhưng với Đức Giêsu, đó là những con người, là những giá
trị do Thiên Chuá tạo nên.
-
Một đồng xu quý giá thế nào đối với
người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào với tấm lòng người cha,
thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy với tấm lòng của Thiên Chúa.
-
Như con chiên bị mất đang cô đơn,
bơ vơ, đói khát, với bao nguy hiểm. Người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ
nó tìm đường về, mà phải đích thân đi tìm nó. Đức Giêsu như người mục tử ấy,
Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng bước trước đến với họ trong tình
trạng họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó cho chúng ta biết con
người có gia trị thật lớn lao.
b) Những con người bị mất: Không chỉ đồ vật, thú vật bị mất, mà
chính con người cũng có thể bị mất như khi:
- đứa trẻ đi
hoang vì không tìm được hạnh phúc trong gia đình,
- thiếu niên bị
thói xấu xã hội lôi kéo,
- người nghiện
ngập đến nỗi hư nát cả cuộc đời,
- vợ chồng bất
thuận đến độ không còn nhìn mặt nhau,
- anh em bất hòa
không coi nhau ra gì,
- tín hữu khô
khan, tội lỗi xa lánh gia đình, xứ đạo…
- Những người bị lạc mất ấy có thể là tự ý, ham
vui, bị lôi cuốn, bị xua đuổi, bị kỳ thị…đang ở giữa chúng ta. Mà chưa được
chúng ta đưa về.
-
Còn Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn
sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm một con chiên lạc mất; như người
đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi; như người cha già nhân
hậu, ngày ngày ra ngõ ngóng con.
-
Đúng thế, "lỗi lầm là của con
người và tha thứ là của Thiên Chúa". Thiên Chúa yêu thương con người
đến cùng. Mà tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế vào giờ phút
cuối cuộc đời, dù phải đớn đau khôn tả, chịu khinh khi chối bỏ, Ngài vẫn cầu
nguyện tha thiết:"Lạy Cha, xin tha
cho họ". Đây là lời rõ ràng, trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao
thượng, tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
-
Tuy nhiên Thiên Chúa chỉ thứ tha ai thật lòng sám hối: cô gái điếm biết
sám hối; đứa con hoang đàng quay về; Giakêu biết đền bù; người trộm lành lầm
lỡ, biết mình tội lỗi…
- Kinh nghiệm cho hay chỉ dễ dàng tha thứ cho kẻ
khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Nhận ra mình cũng thường
sai phạm, mọi người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của nhau.
-
Khi chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa thì như Chúa mất chúng ta, chúng
ta làm mất Chúa. Dù dại dột, phản bội, lạnh lùng, bất tuân hay lý do nào, Chúa
cũng tìm đưa chúng ta về với Ngài là cha, là chủ chúng ta.
c) Đứa con hoang đàng:
-
Theo luật Do Thái, người cha không
được chia gia tài tuỳ ý của mình. Mà con cả phải được hai phần ba, con thứ chỉ được
một phần ba.
-
Nếu người cha muốn được nghỉ ngơi
thì cũng có thể phân chia gia tài ngay lúc còn sống.
-
Người cha ở đây nhân từ, chưa nghỉ hưu, nhưng ông cũng không muốn tranh
luận gì trước sự trơ tráo của đứa con thứ:"
Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng."
- Ra
khỏi nhà với gia tài vừa nắm trong tay, anh ta nhanh chóng ăn chơi hoang phí
hết tiền và kết thúc bằng việc đi làm mướn; ở đó, anh phải chấp nhận làm những
công việc hèn hạ nhất, nhưng cũng không được no thân ấm áo.
- Bước
đường cùng, anh hồi tâm tự suy nghĩ:"Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm đủ
gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi ta đứng lên, đi về cùng cha... "
- Đây
là một điều đáng quí nhất mà Đức Giesu đã ban khen, cũng như đặt niềm tin và sự
mong muốn nhất nơi con người tôi lỗi:" Khi nó hồi tâm tự nhủ, trở về với chính
mình."
- Chúa
tin rằng bao lâu con người tội lỗi, xa cách và chống nghịch lại Thiên Chúa, thì
con người không thực sự là con người; con người chỉ thực sự là chính mình khi
đang trên đường trở về với Thiên Chúa.
- Như
người con thứ, quyết định trở về và thưa với cha mình:"Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng
được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy."
- Đó
là sự khiêm hạ thật lòng của người con khi trở về, bởi theo nghĩa thì người nô
lệ được coi như là một phần tử của gia đình; còn đầy tớ ở thuê thì là người
ngoài, xong việc rồi thôi, lại có thể bị đuổi bất cứ lúc nào.
- Cái
may mắn mà người con thứ nhận được là tình thương, lòng nhân hậu của người cha,
luôn tin tưởng và chờ đợi ngày tỉnh ngộ của con.
- Bởi thế khi trông thấy con từ
đằng xa, ông đã chạnh lòng thương, chạy ra ôm hôn thắm thiết.
-
Người con chưa kịp nói hết lời, cha già đã lên tiếng công khai phục hồi
quyền làm con cho anh.
- Còn
tổ chức tiệc cho cả nhà cùng vui mừng đón sự trở về của con, đã mất nay tìm
thấy, như chết nay sống lại.
- Đây
là một bức tranh kiệt tác, mọi chi tiết đều sắc bén tuyệt với mà Thánh Luca đã
vẽ lại.
- Không
dụ ngôn nào được người ta nhắc đến, chiêm ngắm, soi mình mãi vẫn chưa thể học
hết lời dạy của dụ ngôn này.
- Cũng
không dụ ngôn nào mà tội nhân được đón tiếp nồng hậu, như ban thưởng, khiến
không còn cảm giác tội lỗi tày trời của mình.
- Cũng
không dụ ngôn nào thể hiện tình yêu của Thiên Chúa, sự thức tỉnh kịp thời và
lòng cương quyết can đảm của con người bằng dụ ngôn này.
4. Quyết tâm tìm lại những
gì đã mất:
Cả ba câu
chuyện được nêu trong Tin Mừng tuần này đều xoay quang một chủ đề: đã mất mà lại tìm được.
a) Cái mất là cái quý:
-
Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi
tìm một con chiên lạc, người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho
bằng được một đồng bị mất.
-
Lý do là: cái mất đã trở thành
cái quý giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy nó quý.
-
Vì sự quý giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã
làm ích cho chúng ta, mà còn do công sức chúng ta đã đổ dồn vào đó, cùng những
hy sinh đau khổ chúng ta đã chịu vì vật hay người đó.
-
Tất cả chúng ta đều như những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên
đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của
nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta cần
có những tâm tình: cảm mến, vui sướng, và tự trân trọng.
- Bởi con chiên, đồng tiền và đứa con bị mất,
đó là ba điều đáng quí nhất của con người: tài sản, tiền bạc và con cái.
- Nếu chúng ta bị mất cả ba điều đó, thì thật
là cái mất lớn lao đáng tiếc nhất.
- Và khi mất vật gì, chúng ta cũng cố gắng đi
tìm cho bằng được.
- Nên niềm vui khi tìm lại được những sự đã mất
đó cũng thật lớn lao.
- Đấy chỉ là những sự mất mát của loài người,
dù nhỏ, lớn, cũng chỉ nằm trong giới hạn, giá trị của tạo vật.
- Và cũng chỉ là cái mất do ngu dại, do sơ hở,
do ham vui thú, do bị lừa dối, do tự ý đi lạc...
b) Tình yêu cuả Thiên Chuá:
- Thiên Chúa thì không mất súc vật, tiền bạc,
nhưng mất con người, mất cái quý báu nhất, và Ngài cũng tiếc, cũng đau khổ như
chúng ta tiếc, đau khổ về của cái, tiền bạc, và con cái bị mất vậy.
- Thiên Chúa lại không chỉ mất một ít, một
phần, một nửa mà mất hết, mất hoàn toàn nhân loại, cái mất như luôn tiếp diễn
nhau, từ thời tổ tiên chúng ta cho đến bây giờ, và vẫn còn mất mát mãi cho đến
ngày tận thế.
- Vì vậy Thiên Chúa đã lập cách cứu loài người,
tìm những gì đã mất:"Con Người đến để tìm kiếm những gì đã mất. "
- Và Ngài đã dùng tình yêu chiến thắng sự dại
dột, sự cám dỗ, và cả sự phản bội của con người để quyết tìm lại những gì đã
mất của Ngài.
Lạy Chúa, biết bao lần
chúng con đã như:
- Con chiên lạc, vì mải mê tìm
kiếm cỏ ăn, nước uống nên đã xa bầy, xa chủ của mình.
-
Đồng tiền không bám được vào đâu để bị xẩy khỏi tay chủ.
- Người con hoang đàng, muốn tự lập tự
chủ, nhưng không đủ bản lãnh, thiếu kinh nghiệm, lại phóng đãng phung
phí, ham vui ... nên đã tiêu tan tất cả những gì mình có.
Nhưng dù vô tình hay cố
ý xa lìa Chúa thì Ngài cũng khẳng định sẽ đi tìm chúng con và vui
mừng ôm ấp chúng con trở về với triều thần Thiên Chúa.
Đứng trước một tình yêu
như thế, chúng con không biết làm gì hơn là xin chúc tụng và cảm tạ Chúa
đến muôn đời. Vì Đức Giesu Kito Chúa chúng con. Amen.
Thân mến,
duyenky
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét