Mon, 24/04/2023 - Trầm
Thiên Thu
NỖI
KHỔ CỦA CHIÊN
Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng
Sống
Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn
Chiên
Ngày xưa, Thiên Chúa nguyền
rủa: “Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử
không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên
béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu,
các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành;
chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về;
chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách
tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho
mọi dã thú, chúng tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh
đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai
kiếm tìm.” (Ed 34:2-6)
Ngày nay, ĐHY Robert
Sarah (bộ trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích từ 23-11-2014 đến 20-2-2021) nhận
định: “Các giám mục làm phân tán đàn chiên mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho họ sẽ bị
Thiên Chúa phán xét một cách không thương xót và nghiêm khắc.” Chính Chúa Giêsu
xác định: “Tôi đến để cho chiên được SỐNG và SỐNG DỒI DÀO,” (Ga 10:10) và Ngài
hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) Còn Thánh Phaolô
cảnh báo: “Một số cành cây ô-liu đã bị chặt đi, còn bạn là ô-liu dại đã được
tháp vào đó, và cùng được hưởng sự sống dồi dào từ rễ cây ô-liu chính. Vì thế,
bạn đừng có lên mặt khinh dể các cành khác.” (Rm 11:17-18)
Xưa nay người ta thường đề
cập nỗi khổ của mục tử nhưng ít (hoặc không) chú ý tới nỗi khổ của chiên, nhất
là những đàn chiên vất vưởng, những con chiên đau khổ vì bị bỏ rơi, bị hành hạ,
bị áp bức,… phải chịu đựng vì thấp cổ bé miệng, kêu không thấu, mà có kêu cũng
chẳng ai thèm nghe. Thảo nào người ta nói: “Buôn có bạn, bán có phường.” Sự thật
nào cũng phũ phàng lắm!
Ngày xưa, khi thấy đám
đông lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt, Chúa Giêsu đã chạnh
lòng thương họ. Ngài nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít.
Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9:37-38) Vì thương
xót, Ngài không muốn ai phải sống èo uột, mà chỉ muốn mọi người được sống dồi
dào, sống viên mãn, sống đúng nhân vị và nhân phẩm của con người, đồng thời
cũng được hưởng nhân quyền và sự tự do đích thực. Chắc chắn phải “đi qua” Chúa
Giêsu Kitô mới có thể được như vậy, vì Ngài là Con Đường duy nhất dẫn đến Chúa
Cha (Ga 14:6) và là Nguồn Sống Viên Mãn (Ga 10:10) cho mọi người.
Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô
không chỉ nuôi sống chúng ta bằng ân sủng mà đặc biệt là chính Mình Máu Ngài để
chúng ta được sống dồi dào, vì Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không là
Thiên Chúa của người chết. (Mt 22:32; Mc 12:27; Lc 20:38) Nếu muốn sống viên
mãn thì mỗi cành nho phải nối kết với Cây Nho Thật để được truyền “nhựa yêu
thương.” (Ga 15:1-17) Cành cây nào có nhiều nhựa thì có nhiều sức sống, con người
cũng vậy, đặc biệt là sự sống tâm linh – sự sống viên mãn từ Thiên Chúa.
Người ta sẽ biến đổi
thành con người mới hoàn toàn nếu được tái sinh bởi Chúa Giêsu Kitô. Cụ thể là
Phêrô. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn
tiếng nói với tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem: “Toàn thể nhà
Israel phải biết chắc điều này: Chúa Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá,
Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.” (Cv 2:36) Nghe thế, họ
đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phêrô cùng các tông đồ khác: “Thưa các anh, vậy
chúng tôi phải làm gì?” (Cv 2:37)
Hỏi như vậy là dấu hiệu tốt
lành, chứng tỏ tâm hồn đã thực sự sám hối, ước muốn hướng thiện, khao khát điều
tốt. Nghe họ hỏi, ông Phêrô nói: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu
phép rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được
ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng
như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa
là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.” (Cv 2:38-39)
Ngoài ra, ông Phêrô còn
dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Rồi ông nói: “Anh
em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ.” (Cv 2:40) Những ai đã đón
nhận lời ông thì đều xin được lãnh nhận phép rửa, muốn được tái sinh để hy vọng
được vào Nước Trời. (Ga 3:5) Ngay hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo.
Chúa Thánh Thần tác động rõ ràng. Ngày nay người ta có phương tiện định vị toàn
cầu giúp không lạc lối, nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới chính là “định vị kế” chuẩn
mực nhất. Nhận biết được vậy thì người ta sẽ an vui tín thác vào sự quan phòng
và tiền định của Ngài, vì họ xác định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng
thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới
dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3)
Họ luôn an tâm và hạnh
phúc thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở
cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc
ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn
chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi
được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:4-6) Thật
vậy, ai tuân giữ lời dạy của Đức Kitô thì không bao giờ phải chết. (Ga 8:51)
“Lòng nhân hậu và tình thương” đó không hề xa lạ, vì đó chính là Lòng Thương
Xót của Thiên Chúa mà ngày nay đang rất phổ biến khắp nơi trên thế giới, từ
thành thị tới thôn quê, từ người già tới người trẻ, vì không ai không là tội
nhân, và vì thế mà không ai lại không cần đến Lòng Chúa Thương Xót.
Hằng ngày, khi đọc Kinh
Mân Côi, chúng ta nhiều lần kêu cầu: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con,
xin cứu chúng con cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất
là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn.” Nhưng cũng rất có thể vì
quen quá hóa nhàm nên chúng ta không thực sự chú ý hoặc không cảm nhận lời cầu
tha thiết như vậy. Đời sống tâm linh được lồng trong đời thường, vẫn có đủ thất
tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,dục) theo bản tính phàm nhân. Do đó mà chúng ta
luôn phải cố gắng không ngừng, sơ sảy một chút là té nhào ngay. Chúng ta luôn
phải “vượt qua chính mình” vì có những điều không vừa ý mình. Tội trong tư tưởng
đáng sợ lắm!
Thánh Phêrô đạt vấn đề:
“Nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm
việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, đó là ơn Thiên Chúa
ban.” (1 Pr 2:20) Và ông giải thích: “Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế.
Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em
dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một
lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng
ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình.” (1 Pr 2:21-23) Cái
khó là “im lặng” và “phó thác” cho Chúa.
Chúa Giêsu là Nguồn Sống
nhưng đã chịu chết để chúng ta có cơ hội sửa sai và có thể phục sinh vinh quang
như Ngài: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên
cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công
chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật,
trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị
Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.” (1 Pr 2:24-25) Chúa Giêsu chết vì tội lỗi
của chúng ta, nghĩa là chúng ta cũng phải dám chết cho tội lỗi của chính mình –
và tội lỗi của người khác, nhờ đó mà được sống lại và được sống viên mãn trong
Đấng Phục Sinh.
Chúa Giêsu là Con Đường,
là Sự Thật, là Sự Sống, (Ga 14:6) và là Cửa (Ga 10:9) dẫn vào Nguồn Sống Viên
Mãn của Thiên Chúa: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn
chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi
qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên
nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra
hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh.
Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng
người lạ.” (Ga 10:1-5) Người ta không hiểu khi nghe Ngài nói vậy. Tất nhiên
không chỉ khó hiểu đối với những người thuộc nhóm Pharisêu hồi đó, mà còn khó
hiểu đối với cả chúng ta ngày nay.
Thật vậy, những lời Chúa
Giêsu nói nghe không thấy có gì “gay gắt,” nhưng thực ra hiểu rồi thì cảm thấy
“đụng chạm” và “nhức óc” lắm, vì Ngài muốn nhấn mạnh đến tính chất cần thiết của
Mục Tử Nhân Lành. Mục tử đó phải thể hiện lòng thương xót và dám liều mạng vì
đoàn chiên. Nói đến lòng trắc ẩn, và đặc biệt trong Tháng Hoa, chắc hẳn nhiều
người còn nhớ gương yêu thương sáng chói của Thánh tử đạo Lm Maximilian Maria
Kolbe. [*] Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành đích thực, yêu thương mọi người, và
chỉ muốn mọi người “đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu
thương cách chân thật và bằng việc làm,” (1 Ga 3:18) phải phục vụ chứ không được
hưởng thụ, (Mt 20:28) thế nhưng vẫn thấy có những người thích dùng quyền và ra
lệnh hơn là khiêm nhường phục vụ vì yêu thương.
Có lần ĐGH Phanxicô đã cảnh
báo các giám mục: “Mục tử có nguy cơ bị mê hoặc bởi viễn tượng nghề nghiệp, bởi
cám dỗ về tiền bạc, và những thỏa hiệp theo tinh thần thế gian.” Có lần ngài nhấn
mạnh rằng giám mục là người được chọn để phục vụ một Giáo Hội duy nhất, vì thế
không được tìm kiếm một việc gì khác ngoài việc phục vụ Giáo Hội, và ngài đã
nói thẳng: “Nếu tìm kiếm một việc gì khác thì chính giám mục đó đang ngoại
tình.” Gương “giám mục xa hoa” Franz Peter Tebartz van Elst (người Đức) còn đó,
và rồi ông đã bị đình chỉ nhiệm vụ hồi tháng 10-2013, sự cố 10 năm rồi nhưng
không bao giờ cũ.
Thời gian gần đây có nhiều
chuyện rắc rối liên quan mục tử trong Giáo Hội tại Việt Nam. Chắc chắn Mục Tử
Giêsu đau khổ lắm! Nhắc tới những điều “nhạy cảm” như vậy, có những người “nhột”
(chính họ nhột hoặc nhột dùm), nhưng phải nhột như vậy mới có thể “thức giấc.”
Chúng ta chỉ tâng bốc nhau bằng những lời khen sáo rỗng để lấy lòng nhau thì có
ai lợi gì không, hay lại chỉ dìu nhau vào con đường mê lầm? Dám nhìn thẳng vào sự
thật mới là người yêu sự thật, và nhờ đó mới có thể thành nhân. Sợ sự thật hoặc
tránh sự thật là đồng lõa với sự giả dối.
Khi đọc Lời Chúa, người
ta chỉ thích những câu “vừa ý mình,” tránh những câu “chói tai” càng nhiều càng
tốt. Người ta nói rất mạnh khi gặp đoạn Kinh Thánh không “chạm” tới mình, nhưng
lại “bẻ lái” khi gặp đoạn Kinh Thánh “hóc búa,” vì có những câu “chạm” mạnh
quá, nên cảm thấy… “nhột” và tránh né. Lời Chúa là thế, có lúc khiến chúng ta
vui mừng phấn khởi, nhưng có lúc làm chúng ta đau điếng. Có dám chịu “nỗi đau”
đó thì mới khả dĩ “bừng tỉnh cơn mê” mà sớm thành nhân. Chỉ có thuốc đắng mới
“đã” tật mà thôi!
Mục Tử Giêsu xác định:
“Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng
chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy
sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy.
Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10:7-10) Mục Tử
Nhân Lành là vậy, luôn sống và hành động vì người khác, vì đoàn chiên, vì sự thật.
Ai không là chủ chiên nhân hậu như Ngài thì chỉ là “thợ chiên” (chăn thuê) mà
thôi, qua loại “cửa” này thì chết chắc!
Liên quan sự viên mãn,
Thánh Phaolô kêu gọi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong
tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để
cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao
sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết.
Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.” (Ep
3:17-19) Trong lời kinh hòa bình, Thánh Phanxicô Assisi có nguyện ước thực tế
và sâu sắc: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.”
Và ngài tin chắc: “Chính
lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” Đó chính là sự sống dồi dào và viên mãn
của những người tin Chúa Giêsu Kitô là Thánh Tử hóa thành nhục thể, chịu chết
và phục sinh. Chúa Giêsu đã cứu độ chúng ta bằng Bửu Huyết vô giá, nhờ đó mà
chúng ta được phục hồi cương vị làm con và được sống viên mãn.
Lạy Thiên Chúa hằng hữu
và nhân lành, xin cho mọi người biết sống vì Ngài trong mọi hoàn cảnh. Xin cho
các giáo sĩ sống theo chuẩn mực của Mục Tử Giêsu đặt ra, để đoàn chiên không phải
chịu khổ, nhưng được sống dồi dào và phát triển đúng ý Ngài. Chúng con cầu xin
nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Amen.
TRẦM THIÊN THU
[*] Lm Kolbe là tu sĩ
Dòng Phanxicô, sinh ngày 8-1-1894, tử đạo ngày 14-8-1941 tại trại tập trung
Auschwitz của Đức Quốc Xã, thế chiến II. Ngài được tuyên xưng là vị tử đạo bác
ái vì đã động lòng trắc ẩn mà chịu chết thay cho một tử tù có vợ con. Ngài được
tuyên thánh ngày 10-10-1982, được tôn làm thánh bổn mạng của người nghiện ma
túy, tù nhân chính trị, gia đình, ký giả, phong trào bảo vệ sự sống, và là
“Thánh Bổn Mạng của Thế Kỷ Khó Khăn” này. Ngài được mệnh danh là Tông Đồ Tận Hiến
cho Đức Mẹ vì đã nỗ lực thúc đẩy phong trào tận hiến và phó thác cho Đức Mẹ, và
được gọi là “Gã Khờ của Đức Mẹ” vì đã làm mọi thứ cho Đức Mẹ. Chính cái chết của
ngài là đỉnh điểm của “sự sống hoàn toàn tận hiến cho Đức Mẹ.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét