MÙ TÂM LINH
(Chúa nhật IV mùa Chay, năm A)
(Mon,
20/03/2017 - Trầm Thiên Thu)
Khiếm thị không chỉ gây
“bất tiện” mà còn có thể liên quan các bệnh khác như chậm phát triển tinh thần,
rối loạn tự kỷ, bại não, suy giảm thích giác, và động kinh. Theo WHO, khiếm thị
được định nghĩa là khi thị lực của một người dưới mức 20/500 hoặc thị trường nhỏ
hơn 10 độ. Định nghĩa này được đưa ra năm 1972, và vẫn còn được thảo luận xem
nó có nên được thay đổi một chút hay không.
Chỉ bị bụi vô mắt hoặc
đau mắt thôi cũng đã thấy khổ rồi, chứ nói chi tới khiếm thị, lòa, thông manh
hoặc mù lòa. Thảo nào tiền nhân đã xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn
tay”. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù bẩm sinh
còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy “bình thường”
vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ, mập – gầy, vuông
– tròn, … hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù cảm thấy khổ hơn vì đã trải
nghiệm nhiều khái niệm. Một người mắt sáng bình thường nhưng vẫn có những “điểm
mù” đặc trưng nào đó.
Có hai con mắt, mờ một mắt,
kémhoặc hư một mắt, thị lực yếu cũng là khổ lắm rồi, huống chi bị mù hẳn. Hai
con mắt “khác” một chút như bị đau cũng thấy khổ rồi, tình trạng “bốn mắt” là
khổ suốt – dù có thêm “hai con mắt” nữa. Kính mắt vừa tốn kém vừa vướng víu,
phiền phức vì phải lệ thuộc nó!
Thật lạ lùng là mắt cũng
biết khóc, biết cười, chứ không đơn giản chỉ để nhìn. Khó nhận biết khi mắt cười,
nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ,
vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nhõng nhẽo, vì giả bộ, … Tuy nhiên, đôi
khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nỗi buồn
và làm sạch mắt nhờ chất mặn, nhờ biết khóc mà mắt thêm đẹp. Có điều đặc biệt
là phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân!
Nước mắt là loại đặc ngữ
mà trái tim không thể diễn tả. Mắt còn có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, như
người ta ví von: “Đôi mắt là của sổ của tâm hồn”. Qua hai “cửa sổ” này, người
ta có thể biết người đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng
đôi khi cửa sổ vẫn quan trọng lắm đấy. Đôi khi không cần mở cửa ra vào nhưng lại
rất cần mở cửa sổ. Người yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của người “mạnh
vía”. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu thôi!
Cảnh mù lòa đồng nghĩa với
tối tăm, tất nhiên trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là
tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” còn nguy hiểm
hơn nhiều. Thế nênChúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử:
cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39).
Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Chắc hẳn lúc đó chúng ta
hóa thành người “có mắt như mù”. Khủng khiếp và đáng sợ quá!
Trong cuộc sống có nhiều
hình thức mù, nhiều mức độ mù, và cũng đa dạng về “điểm mù”. Ngày xưa, Đức Chúa
đã phán với ông Sa-mu-en: “Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta
đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy
sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy
trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua” (1 Sm 16:1). Chúa không
nói đến mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc”.
Trình thuật 1 Sm
16:6-7,10-13 cho biết rằng khi họ đến, ông Sa-mu-en thấy Ê-li-áp nên nghĩ:
“Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!”.
Nhưng Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao
lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người
phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Cách nghĩ của
Thiên Chúa đã khác hẳn với loài người rồi, mà cả tầm nhìn của Ngài cũng hoàn
toàn khác.
Còn phàm nhân chúng ta ưa
“trông mặt mà bắt hình dong”, cứ tưởng “con lợn béo” thì chắc chắn “lòng nó
ngon”. Nhưng Thiên Chúa lại không như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà
Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam chí lý: “Chiếc áo không làm nên
thầy tu”. Nhưng mấy khi chúng ta thóat
được “điểm mù” này? Những người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời
hợt, nông cạn – gọi là dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém”. Đó cũng là dạng tâm
lý yếu kém.
Sau đó, ông Gie-sê cho bảy
người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông
Gie-sê: “Đức Chúa không chọn những người này”. Quả là “mắt thần” có khác! Rồi
ông lại hỏi ông Gie-sê rằng các con ông có mặt đầy đủ chưa. Ông Gie-sê nói còn
cháu út nữa, nó đang chăn chiên. Ông Sa-mu-en liền bảo ông Gie-sê cho người đi
tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc
hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Sa-mu-en: “Đứng dậy,
xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!”. Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức
cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Và rồi Thần Khí Chúa liền nhập vào Đa-vít từ
ngày đó trở đi. Đặc điểm của Đa-vít: tóc hung và đẹp trai (1 Sm 17:42).
Phụng vụ Chúa Nhật Hồng
(Chúa Nhật Mừng – Laetare Sundae) sử dụng trọn Thánh Vịnh 23 (gồm 6 câu). Đây
là Thánh Vịnh phổ biến nên rất quen thuộc, nói về niềm hạnh phúc được Chúa quan
phòng, tiền định và che chở, đồng thời cũng có ý đề cập niềm tín thác vào Ngài:
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi,
Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho
tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-4).
Thật vậy, khi có Chúa đồng
hànhthì chúng ta hoàn toàn an tâm và vui sống, “dầu qua lũng âm u”thì cũng “chẳng
sợ gì nguy khốn”, bởi vì chúng ta có “côn trượng Ngài bảo vệ”.Tác giả Thánh Vịnh
xác định: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa
xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương
Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những
năm dài triền miên” (Tv 23:5-6).Vâng, có Chúa là có tất cả, hoàn toàn an tâm vững
dạ, bởi vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không hề có chút bóngmờ
hoặc tối tăm.
Nói về bóng tối tâm linh,
Thánh Phaolô phân tích: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh
em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại
tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5:8-9). Ông nhắc
nhở chúng ta phải cẩn trọng cân nhắc xem “điều gì đẹp lòng Chúa”, chứ “đừng cộng
tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra
mới đúng” (Ep 5:10-11). Ông giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút thì
nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm
lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng:
“Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức
Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14).
Bóng tối đối nghịch với
ánh sáng. Bóng tối rất mạnh, chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nó
mạnh mà lại yếu, vì chỗ nào có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng bị đẩy lùi
ngay. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng
rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên
quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống:
“Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”.
Cuộc sống đời thường và
tâm linh cũng tương tự.Chuyện đời thường mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện
tâm linh càng phải nỗ lực hơn nhiều lắm!
Một hôm, Thầy tròcùng
nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã
phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Đức
Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội.
Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ
hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời
còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian,
Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9:3-5). Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của
Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc Thiên Chúa được vinh danh.
Tuy nhiên, đáng lẽ chúng
ta phải “ngộ” ra nhờ câu trả lời của Chúa Giêsu mới phải, thế nhưng có lẽ chúng
ta vẫn không mấy quan tâm. Do đó, trong cuộc sống, chúng ta vẫn “chắc nịch” cho
rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị
tai nạn, bị bệnh hoạn, gặp điều xui xẻo, …) là những người tội lỗi, xấu xa hoặc
độc ác. Có người chỉ “để bụng”, nhưng có người lại dám phán một câu “xanh rờn”
rằng: “Chúa phạt!”. Ôi, lạy Chúa tôi! Nói theo phim bộ Hong Kong thì phải nói:
“Thiện tai!”.
Không chỉ vậy, chúng ta
còn có thiên kiến (định kiến). Cũng một sự việc như nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với
người không “hợp ý mình” thì chúng ta nói: “Chúa phạt cho đáng đời!”. Nhưng với
người “hợp ý mình” thì chúng ta lại nói: “Thánh giá Chúa trao”. Đúng là “cái lưỡi
không xương nhiều đường lắt léo”. Chính định kiến đó là cách chúng ta “giết”
người mà không cần gươm giáo!
Đừng quên Thiên Chúa đã
nghiêm khắc cảnh báo: “Đừng tưởng mình là công chính trước mặt Đức Chúa, cũng đừng
ra vẻ khôn ngoan bên cạnh đức vua. Đừng cười nhạo ai đang cay đắng trong lòng,
vì có Đấng vừa hạ xuống vừa cất nhắc lên” (Hc 7:5 và 11). Mọi sự đã có Thiên
Chúa quan phòng và tiền định, đừng cầm đèn chạy trước ô-tô, trứng đừng đòi khôn
hơn vịt, vì đó KHÔNG là việc của chúng ta!
Trả lời các đệ tử xong,
Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi
bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là “người được
sai phái”). Anh tađến rửa ở hồ ngay lập tức, và trên đường về thì nhìn thấy được.
Chúa Giêsu có “biệt dược” độc đáo ghê đi, hiệu quả liền. Mà phải nói là “thần
dược” hoặc “linh dược” mới đúng ngữ nghĩa. Đó là “nước miếng trộn với bùn”. Hay
dữ nghen! Mấy lang băm chớ mà học đòi theo Thầy Giêsu kẻo bệnh nhân hóa tệ hơn,
còn các pháp sư thấy vậy thì phải sợ mà chạy có cờ, các lương y và bác sĩ danh
tiếng cũng phải tâm phục khẩu phục!
Trước đó, dân chúnghằng
ngày thấy anh ta ăn xin mới xì xầm bàn tán, kẻ thì bảo là chính hắn, kẻ thì bảo
không phải, kẻ lại bảo ai đó giống hắn thôi. Chín người, mười ý. Chẳng ai chịu
ai. Thế là họ dẫn anh ta đến với những người Pha-ri-sêu. Rắc rối là ngày Chúa
Giêsu trộn bùn với nước miếng và làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sa-bát.Ấy
thế, người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Chính
anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy” (Ga
9:15). Sự thật là sự thật, không thể nói khác được.
Còn trong nhóm
Pha-ri-sêu, có người thì nói rằng Chúa
Giêsu không thể là người của Thiên Chúa được, vì Ngài không giữ ngày sa-bát, có
kẻ thì lập luận rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như vậy.
Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người
ta mà xía vô làm chi vậy kìa? Rồi họ lại hỏi “cựu người mù” nghĩ gì về người đã
mở mắt cho mình. Anh ta đáp ngay: “Người là một vị ngôn sứ!” (Ga 9:17). Rất thẳng
thắn, rất rạch ròi. Sự thật là thế mà!
Những người Do-thái không
tin trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, họ đã gọi cha mẹ của anh ta đến.
Họ hỏi anh ta có phải là con không. Cha mẹ của anh ta XÁC NHẬN anh bị mù từ khi
mới sinh, còn bây giờ anh ta sáng mắt, chuyện nàythì họ không biết tại sao, cha
mẹ của anh ta bảo họ cứ hỏi chính anh talà rõ ràng nhất. Cha mẹ của anh ta nói
thế vì sợ người Do-thái, những ngườisẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ
nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Có lẽ chúng ta cũng đã nhiều lần hèn
nhát vì SỢ như cha mẹ của anh mù này. Chẳng oan ức chi mô!
Và rồi một lần nữa, họ gọi
người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây,
chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi” (Ga 9:24). Trước nói khác, sau nói khác.
Đúng là “lưỡi rắn” của bọn Biệt Phái. Nhưng anh ta bảo rằng ông ấy có phải là
người tội lỗi hay không thìanh không biết, mà anh chỉ biết một điều là trước
đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm thế
nào mà anh sáng mắt. Anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không chịu nghe. Rồi anh
thẳng thắn đặt vấn đề rằng có phảihọ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không.
Tự ái bốc tới chỏm đầu nên họ không tiếc lời mắng nhiếc: “Có mày mới là môn đệ
của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng
Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu
mà đến”. Thật là phiền toái với loại người lắm chuyện và giả hình như bọn Biệt
Phái!
Nghe họ nói vậy, anh ta vừa
gãi đầu vừa nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế
mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời
những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người
nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới
sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được
gì” (Ga 9:30-33). Họ đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu,
thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34). Và rồi họ liền trục xuất
anh ta. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi!
Chính Đức Giêsu cũng biết
họ đã trục xuất anh ta. Khi gặp lại, Ngài hỏi anh ta có tin vào Con Người
không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy
Người. Chính Người đang nói với anh đây” (Ga 9:37). Thật bất ngờ, nhưng anh thấy
rất vui nên nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin” (Ga 9:38). Nói xong, anh sấp mình xuống
trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thường thì đa
số hơn thiểu số, nhiều người ghét Chúa Giêsu, nhưng anh vẫn có lập trường rõ
ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy”. Mấy ai dám
hành động như anh ta? Quả thật, anh ta rất can đảm, đáng để chúng ta noi gương
lắm.
Biết anh thật lòng, vì
Chúa Giêsu “đi guốc trong bụng mọi người” (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb
7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2;
Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr
12:4-6), Ngài nói với anh ta: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người
không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Những người
Pha-ri-sêu đang ở đó và nghe vậy thìgiật thót mình và liền lên tiếng: “Thế ra cả
chúng tôi cũng đui mù hay sao?”. Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ mọn” như thế
thì chả bao giờ khá lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp như ống hút nước
vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu cũng mắc cười và lắc đầu, nhưng vẫnthản nhiên bảo
họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói
rằng ‘chúng tôi thấy’, nên TỘI CÁC ÔNG VẪN
CÒN!” (Ga 9:41). Họ thường ngu đột xuất, giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm
cỡ quốc tế luôn!
Thế còn chúng ta? Liệu đã
có những lần chúng ta y như người Pha-ri-sêu vậy? Chắc chẳng hơn họ đâu! Và rồi
chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời “thuận ngôn”,
không chịu “cân nhắc” lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề,
thế nên chúng ta “có mắt như mù”. Thật đáng sợ biết bao!
Như chúng ta đã biết, mù
lòa thì chắc chắn khổ, nhưng chỉ mờ mắt hoặc thông manh cũng khổ lắm, và cũng
khổ nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo, nếu đôi mắt
không bình thường. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế
nào là số phận bọn ác nhân” (Tv 91:8). Do đó, chúng ta phải luôn biết cầu nguyện:
“Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao” (Tv 119:18).
Chúa Nhật IV Mùa Chay là
“cột mốc” cho biết rằng chúng ta đã đi được nửa Hành Trình Mùa Chay. Con-mắt-đức-tin
của chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm mấy độ, còn cận thị, viễn thị hoặc
loạn thị nhiều hay ít? Chúng ta cận thị vì tưởng mình đạo đức tốt lành, viễn thị
vì không nhìn rõ tội mình, và loạn thị vì cứ “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, và lỗi tại
người khác một phần”. Đã qua nửa hành trình Mùa Chay, chúng ta cùng tạ ơn Chúa,
đồng thời tiếp tục cầu xin Ngài dìu dắt chúng ta vác thập-giá-của-mình cho hết
chặng Đời-Chay theo đúng Thánh Ý của Ngài.
Thiết tưởng cũng cần đề cập
câu nói của Mahatma Gandhi: “Tôi yêu mến Chúa Kitô nhưng tôi ghét các Kitô hữu,
vì họ KHÔNG GIỐNG Đức Kitô. Nếu họ giống Đức Kitô thì dân Ấn chúng tôi trở lại
Công giáo cả rồi”. Thật là “nhức nhối” quá, vì chúng ta còn nhiều ảo tưởng lắm
– tức là chứng mù trầm kha!
Lạy Thiên Chúa là Bác Sĩ
Toàn Năng, xin mở mắt-đức-tin cho con, xin tăng thị-lực-tâm-linh cho con, xin
giúp con nhìn thấy chính Chúa trong mọi người – nhất là nơi những người nghèo
khổ, nơi những người hèn mọn, và xin cho bất kỳ ai gặp con cũng có thể nhận thấy
Ngài sống động nơi con. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấngcứu độ
nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét