NGƯỜI PHỤ NỮ PHI THƯỜNG
Wed,
08/02/2017 - Trầm Thiên Thu
Trong thập niên 1960 của
thế kỷ XX, hai bộ phim (một tài liệu và một phim truyện) cùng nói về cuộc đời của
một phụ nữ đã được trao hai giải Oscar, gây xôn xao ngành công nghiệp giải trí
thế giới. Người phụ nữ phi thường đó là Helen Adams Keller – người khiếm thị đầu
tiên trên thế giới nhận bằng đại học, rồi trở thành Tiến sĩ danh dự của Đại học
Harvard và nhiều trường đại học danh tiếng khác.
Helen Adams Keller
(27/6/1880 – 1/6/1968) là nhà văn, nhà hoạt động chính trị và giảng viên người
Mỹ. Bà là người mù và điếc đầu tiên nhận được bằng Thạc sỹ Nghệ thuật. Câu chuyện
về cô giáo của bà, Anne Sullivan, vượt qua sự cô lập gần như hoàn toàn trong sự
thiếu vắng ngôn ngữ để dạy bà cách giao tiếp và nhận thức thế giới được biết tới
rộng rãi trên thế giới qua vở kịch và bộ phim The Miracle Worker – Người Lao động
Phi thường.
Đã có 7 Tổng thống Mỹ và
Thủ tướng của nhiều nước dành thời gian tiếp kiến bà. Helen Keller đã cất công
đi khắp thế giới để nói với những người cùng cảnh ngộ một điều giản dị: “Khuyết
tật không phải là bất hạnh tột cùng của con người. Người mù không phải là thiên
tài cũng không phải là một kẻ ngốc. Trách nhiệm của cộng đồng là giúp đỡ người
đó làm hết khả năng của mình để có thể chiến thắng ánh sáng qua công việc”… Bằng
tất cả những nỗ lực phi thường, Helen Keller đã viết nên 12 cuốn sách – 12 bài
ca huy hoàng nhất về sự vươn lên của con người…
Helen Adams Keller là người
Mỹ gốc Đức, sinh ngày 27/6/1880 tại Tuscumbia thuộc vùng Tây Bắc Alabama. Trong
19 tháng đầu tiên của cuộc đời, Helen là một bé gái bụ bẫm, xinh xắn, đáng yêu,
suốt ngày líu lo như chim hót. Nhưng chỉ sau một trận sốt bại não, cô bé đã mất
đi gần như tất cả các khả năng giao tiếp của một con người: không nhìn thấy ánh
sáng, không nghe thấy âm thanh…Phải rất lâu sau khi Helen bình phục, cha mẹ cô
bé mới nhận thấy các dấu hiệu bất bình thường đó. Họ đã trải qua tất cả các nấc
thang tâm lý khi phải đối mặt với một sự thật quá phũ phàng: hoảng sợ, chạy trốn,
phủ nhận, giấu giếm nỗi đau, bế tắc… Nhưng may thay, cuối cùng họ đã thoát ra
được tất cả các trạng thái tâm lý đó và đã gắng làm tất cả những việc có thể để
cứu cô bé khỏi thế giới mù lòa. Và việc làm có ý nghĩa lớn lao nhất của họ là
đã tìm được những vị “cứu tinh” cho cuộc đời khốn khổ của cô bé.
Vị “cứu tinh” đầu tiên của
Helen là Alexander Graham Bell. Lúc bấy giờ Bell là một nhà chuyên môn làm việc
tại trường của trẻ em điếc. Nhờ có ông, Helen mới có cơ hội được gặp gỡ Anagnos
– Hiệu trưởng Học viện Y khoa Perkins kiêm Giám đốc Bệnh viện tâm thần
Massachusetts. Chính Anagnos đã tìm cho Helen một “vị cứu tinh” thứ hai, người
được tôn vinh là “thiên sứ của ánh sáng” đã đưa cô bé quay trở lại với cuộc sống
và trở thành người có ích cho xã hội.
Cô giáo của Helen tên là
Anne Sullivan, 20 tuổi, người Irland, là một người có hoàn cảnh khá đặc biệt.
Cô mồ côi cả cha lẫn mẹ, cũng từng sống trong thế giới mù lòa suốt mười lăm năm
trời. Cô đã tốt nghiệp Học viện Y khoa Perkins và nhờ hai lần phẫu thuật mắt
nên đã lấy lại được một phần thị lực. Thấm thía nỗi đau của một người đã từng sống
trong bóng tối, khi được Anagnos giới thiệu làm gia sư cho Helen, Anne đã nhận
lời, với hy vọng cứu vớt một sinh linh khốn khổ.
Thật khó có thể kể hết những
gian nan vất vả của Helen trên hành trình tìm đến với “ánh sáng”. Đành rằng
Helen may mắn gặp được cô giáo Anne có trái tim nhân hậu, có kỹ năng sư phạm,
song nếu cô bé Helen chẳng chịu hợp tác với cô giáo, chấp nhận buông trôi cuộc
đời mình vĩnh viễn trong tăm tối thì cô giáo Anne cũng đành phải bó tay. Nhưng
Helen đã không chịu đầu hàng số phận, đã nhẫn nại tìm hiểu ý nghĩa của từng từ
một và cố gắng viết lại từ đó trên lòng bàn tay. Cảm giác về cái ngày 5/4/1887,
cái ngày Helen hiểu và viết lại được từ đầu tiên là từ “nước” ấy sẽ không bao
giờ phai mờ trong ký ức của cô bé.
Trong cuốn tự truyện “Cuộc
Đời Tôi”, Helen Keller đã ghi lại cảm xúc kỳ diệu của mình vào thời khắc đó:
“Lúc đó chúng tôi đi ra giếng nước trong vườn và ngất ngây trước hương thơm
ngào ngạt của loài hoa honey-suckle. Cô giáo tôi viết từ “water” (nước) vào tay
tôi trong khi rót một dòng nước mát lạnh vào tay kia, tôi đứng lặng cảm nhận cử
động ngày càng nhanh của các ngón tay của Anne. Bất thình lình một cảm giác mơ
hồ, bị lãng quên từ lâu đã sống dậy trong tôi. Một cảm xúc trào dâng và không
sao hiểu nổi sự bí ẩn của ngôn ngữ bỗng dưng hé mở với tôi. Tôi nằm trên chiếc
giường nhỏ và trải qua cái ngày có ý nghĩa trọng đại vô cùng trong đời tôi. Lần
đầu tiên tôi chờ đợi một ngày mai với một tâm trạng háo hức”.
Sau khi được cô Anne dắt
vào thế giới của ngôn từ, Helen bắt đầu được cô dạy chữ braille (chữ nổi dành
cho người khiếm thị) và sử dụng chiếc máy chữ dành cho người khiếm thị. Lên mười
tuổi, Helen được Mary Swift Lamson dạy nói. Cuối cùng thì sau chín năm im lặng,
cô bé mù và điếc đã biết nói: “Bây giờ tôi không còn câm nữa”.
Năm 16 tuổi, Helen vào học
trường nữ sinh Cambridge và 4 năm sau trở thành sinh viên mù, điếc đầu tiên của
Đại học Radcliffe. Tất nhiên là cô giáo Anne đã phải học cùng với Helen ở tất cả
các cấp học. Helen luôn có cô Anne ngồi cạnh để viết lại nội dung bài giảng vào
lòng bàn tay, còn cô dùng máy chữ để ghi lại bài giảng. Số lượng bài vở khổng lồ
ở Đại học Radcliffe là một thách thức cực kỳ to lớn đối với cả hai cô trò,
nhưng với sự kiên định của mình, Helen không chỉ hoàn thành tất cả các yêu cầu
của một sinh viên, mà còn viết nên cuốn sách đầu tiên của cuộc đời bằng chữ
braille, cuốn “Cuộc Đời Tôi”. Cuốn sách được xuất bản năm 1903, trước khi Helen
nhận bằng cử nhân một năm, đã gây xôn xao dư luận toàn nước Mỹ và đưa cô gái mù
lòa vào đội ngũ các nhà văn thế giới. “Cuộc Đời Tôi” đã nhận được giải thưởng
Văn học Mỹ, trở thành một trong những cuốn sách kinh điển của văn học thế giới
và sau đó được chuyển thể thành kịch bản “Người Sáng Tạo Kỳ Tích”.
Làm gì sau khi tốt nghiệp
đại học để kiếm sống là một câu hỏi khá hóc búa đối với Helen. Nếu chỉ trông
vào nhuận bút của những cuốn sách, chắc chắn cô sẽ không thể tự nuôi sống bản
thân, càng không thể trả lương cho cô Anne và cô thư ký Poly Thomson. Thế là
Helen nảy ra sáng kiến đi diễn thuyết để kiếm tiền. Cùng với Anne, Helen bắt đầu
những cuộc thuyết trình vòng quanh thế giới. Thù lao thu được từ những buổi diễn
thuyết xuyên lục địa đó đã đảm bảo cho hai cô trò cuộc sống tương đối đầy đủ. Về
sau, khi nhu cầu nghe của khán thính giả giảm dần, họ chuyển sang làm kịch vui
và thu được thành công vang dội, với thù lao khoảng hai ngàn đôla mỗi tuần.
Không chỉ nuôi sống bản
thân và thực hiện những dự án văn chương, Helen còn nỗ lực phấn đấu vì quyền lợi
của người mù, trước hết trên toàn nước Mỹ, sau đó là toàn thế giới. Helen đã
dùng chính ngôi nhà của mình làm trụ sở để gây quỹ từ thiện giúp người mù và điếc.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, cùng với nữ thư ký Polly Thomson,
Helen đã đến Nhật, Australia, Nam Phi để gây quỹ cho tổ chức “Những Người Mù Hải
Ngoại”.
Trong hai cuộc chiến
tranh thế giới, Helen đã có mặt tại hơn 70 bệnh viện để an ủi, động viên thương
bệnh binh kiên cường chống chọi với số phận, làm cho họ hiểu rằng tàn phế không
có nghĩa là hết hy vọng trước cuộc sống. Trong ba lần tới nước Nhật, bà được
nhân dân Tokyo tiếp đón nồng nhiệt. Bà kể với mọi người rằng, mình chỉ là một
người không may mắn nhưng đã dùng ý chí nghị lực để chống trả lại số phận trớ
trêu, nhằm mang lại tình thương và sự bù đắp cho người tàn tật.
Trong khi không ngừng phấn
đấu vì quyền lợi của người mù, Helen vẫn dành nhiều thời gian và tâm huyết để
hoàn thành những cuốn sách của cuộc đời. Cùng với “Cuộc Đời Tôi”, Helen còn viết
“Thế Giới Trong Tôi”, “Cô Giáo Của Tôi”… Trong “Cô Giáo Của Tôi”, Helen đã dùng
những lời đẹp nhất, có ý nghĩa nhất để tri ân đối với cô giáo Anne:“Nếu không
có Anne thì chằng bao giờ thế giới biết đến cái tên Helen Keller”. Không giống
như những cuốn sách khác, hành trình “Cô giáo của tôi” đến với công chúng khá đặc
biệt. Khi bản thảo “Cô Giáo Của Tôi” đã hoàn thành, chuẩn bị đưa in thì bị
thiêu cháy cùng với ngôi nhà của Helen. Phải mất tới vài năm, Helen mới viết lại
được bản thảo “Cô Giáo Của Tôi”.
Trong bộ ba Helen, Anne,
Poly Thomson, Anne là người rời bỏ cuộc sống sớm nhất. Bà mất năm 1936, khi
Helen 56 tuổi và 24 năm sau, Poly Thom Sơn cũng từ trần, để lại Helen đơn độc
trên cõi đời. Đó là hai người thân thiết nhất đối với Helen, họ vừa là tai, vừa
là mắt, vừa là miệng để Helen nhìn, sống, và cống hiến cho cuộc đời những gì bà
đã trải nghiệm, đã giác ngộ.
Đây là một số câu danh
ngôn “nổi bật” của bà Hellen Adams Keller:
– Tôi đã khóc vì không có
giày để đi chỉ đến khi tôi gặp một người khóc vì không có chân để đi giày.
– Những gì tốt đẹp nhất
phải được cảm nhận bằng trái tim.
– Lạc quan là niềm tin dẫn
tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin.
– Tính cách không thể
phát triển một cách dễ dàng và yên lặng. Chỉ qua trải nghiệm thử thách và gian
khổ mà tâm hồn trở nên mạnh mẽ hơn, hoài bão hình thành và thành công đạt được.
– Chúng ta không bao giờ
có thể học được sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này.
– Điều tôi đi tìm không ở
ngoài kia, nó ở trong bản thân tôi.
Bà Hellen Adams Keller là
một phụ nữ phi thường đáng khâm phục, bà là tấm gương vượt khó để chúng ta phải
cố gắng noi theo.
Thánh Phaolô xác định: “Nếu
phải tự hào thì tôi sẽ tự hào về những yếu đuối của tôi” (2 Cr 11:30).
Tại sao lại hãnh diện về
sự yếu đuối của mình? Thánh Phaolô bộc bạch: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những
mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm
vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại.
Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với
tôi: ‘Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn
trong sự yếu đuối’. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của
tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi.10 Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng
khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì
khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:7-10).
(sưu tầm và tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét