Tòa Thánh công bố văn kiện mới về lý thuyết phái tính
12
Tháng Sáu 2019-Vũ Văn An-Vietcatholic.net, 10/Jun/2019
Theo Gerard O’Connell của
tạp chí America, Bộ Giáo dục Công Giáo của Tòa Thánh vừa ban hành một tài liệu
về vấn đề lý thuyết phái tính, một văn kiện, dù không chứa các yếu tố tín lý hoặc
phát triển nào mới, nhưng đã tìm cách trình bày quan điểm của Giáo Hội Công
Giáo về vấn đề theo cách không bút chiến và bày tỏ sự cần thiết phải đối thoại
về chủ đề này.
Bản ăn được ký bởi bộ trưởng
và tổng thư ký thánh bộ, lần lượt là Đức Hồng Y Giuseppe Versaldi và Đức Tổng
Giám Mục Angelo Vicenzo Zani. Nhưng không chỗ nào nói rằng Đức Giáo Hoàng
Phanxicô đã duyệt hoặc phê chuẩn tài liệu này. Điều này có thể gợi ý rằng bản
văn này là cơ sở để đối thoại và thảo luận cho những người liên quan đến lĩnh vực
giáo dục và không được coi là câu trả lời cuối cùng về chủ đề gây tranh cãi
này.
Đức Hồng Y Versaldi,
trong một bài trình bày được công bố trước báo chí cùng với bản văn “Nam và Nữ”,
giải thích rằng các giám mục trên toàn thế giới đã lưu ý đến vấn đề phái tính
trong thập niên vừa qua. Trong hội nghị toàn thể của thánh bộ vào tháng 2 năm
2017, “ý thức hệ phái tính” đã xuất hiện như “một vấn đề khẩn cấp” trong lĩnh vực
giáo dục, vì vậy hội nghị đã quyết định thánh bộ nên viết một tài liệu để giúp
đỡ những người làm việc trong lĩnh vực giáo dục Công Giáo. Đức Hồng Y Versaldi
cho biết các bộ sở của Tòa Thánh đã đóng góp nhiều dữ liệu, nhưng ngài không
nói liệu các thành viên của thánh bộ ở các nơi khác nhau trên thế giới có được
tham khảo ý kiến hay không.
Tài liệu dài 31 trang,
đang được gửi đến các chủ tịch của mọi hội đồng giám mục, mang tựa đề “Người dựng
nên họ có nam có nữ”. Nó được công bố bởi phòng báo chí Tòa Thánh vào ngày 10
tháng 6 và có phụ đề là “Hướng tới một con đường đối thoại về vấn đề lý thuyết
phái tính trong giáo dục”.
Bản văn giải thích rằng
“lý thuyết phái tính” nói lên một ý thức hệ vốn “bác bỏ sự khác biệt và tính hỗ
tương trong bản tính đàn ông và đàn bà và dự kiến một xã hội không có sự khác
biệt giới tính, do đó loại bỏ cơ sở nhân học của gia đình.
Bản văn nói rằng ý thức hệ
này dẫn đến các chương trình giáo dục và các ban hành luật pháp nhằm cổ vũ một
bản sắc bản vị và thân mật xúc cảm tách biệt hoàn toàn với sự khác biệt sinh học
giữa nam và nữ với hậu quả là “bản sắc con người trở thành sự lựa chọn của cá
nhân, một lựa chọn cũng có thể thay đổi theo thời gian”, như Đức Giáo Hoàng
Phanxicô giải thích trong tông huấn của ngài về gia đình, “Amoris Laetitia” (số
56).
Trong khi nhìn nhận rằng
ý thức hệ này tương phản với viễn kiến của Kitô giáo về nhân học, tài liệu nói
rằng, “nếu chúng ta muốn tiếp nhận cách tiếp cận vấn đề lý thuyết phái tính dựa
trên con đường đối thoại, thì điều sinh tử là phải lưu ý phân biệt giữa ý thức
hệ phái tính một mặt và mặt khác, toàn bộ lĩnh vực nghiên cứu về phái tính mà
các khoa học nhân văn đã và đang đảm nhiệm.
Tài liệu nhắc nhớ rằng Đức
Giáo Hoàng Phanxicô đã chỉ ra rằng dù các ý thức hệ phái tính đáp ứng “các hoài
mong đôi khi có thể hiểu được”, nhưng chúng cũng tìm cách “tự khẳng định là tuyệt
đối và không thể nghi ngờ, thậm chí còn ra lệnh trẻ em nên được nuôi dạy như thế
nào”, do đó loại bỏ đối thoại.
Bản văn nhấn mạnh “Thay
vào đó, các công trình khác về phái tính đã được thi hành nhằm đạt được sự hiểu
biết sâu xa hơn về cách thức trong đó sự khác biệt giới tính giữa đàn ông và
đàn bà được sống thực trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Chính trong mối liên hệ
với loại nghiên cứu này mà chúng ta nên cởi mở hơn để lắng nghe, lý luận và đề
xuất”.
Tài liệu này cung cấp một
cái nhìn tổng quan ngắn gọn về các “biến cố văn hóa” thế kỷ 20, “những biến cố
đã mang đến những lý thuyết nhân học mới và với chúng là các khởi đầu của lý
thuyết phái tính”. Nó cho rằng, những lý thuyết này “dựa trên một cách hiểu sự
dị biệt hóa phái tính tính hoàn toàn mang tính xã hội , dựa vào sự nhấn mạnh mạnh
mẽ vào quyền tự do cá nhân”, và vào khoảng giữa thế kỷ, “các cuộc nghiên cứu đã
được công bố, nhiều lần nhấn mạnh đến vai trò của điều kiện hóa từ bên ngoài,
bao gồm cả ảnh hưởng của nó đối với việc xác định nhân cách”.
“Khi các cuộc nghiên cứu
như vậy được áp dụng vào giới tính của con người, họ thường làm như vậy với mục
đích chứng minh rằng bản sắc giới tính là một cấu trúc xã hội hơn là một sự kiện
tự nhiên hoặc sinh học có sẵn”.
Theo tài liệu, “vào đầu
những năm 1990, nó chú tâm vào khả thể cá nhân tự xác định xu hướng tình dục của
mình mà không xem xét tính hỗ tương và tính bổ túc trong các mối liên hệ nam nữ,
cũng không xem xét mục đích sinh sản của tình dục. Hơn nữa, có ý kiến cho rằng
người ta có thể ủng hộ lý thuyết tách biệt triệt để giữa phái tính (gender) và
giới tính (sex), với phái tính chiếm ưu tiên hơn giới tính. Một mục tiêu như vậy
được coi như một giai đoạn quan trọng trong sự biến hóa của loài người, trong
đó, “một xã hội không có các dị biệt về giới tính” là điều có thể dự kiến được.
Theo tài liệu, tất cả các
điều trên dẫn đến vấn đề “tách biệt giới tính khỏi phái tính”; và tài liệu viết
thêm, “khái niệm phái tính được coi là phụ thuộc vào tâm thức (mindset) chủ
quan của mỗi người, họ có thể chọn phái tính không tương ứng với giới tính sinh
học của họ, và do đó với cách những người khác nhìn người đó (chuyển phái tính,
transgenderism).
“Các đề nghị của lý thuyết
phái tính gặp nhau ở khái niệm “queer”, có ý nói đến các chiều kích giới tính cực
kỳ dễ thay đổi (liquid, lỏng), dễ uốn nắn, và dường như du mục (nomadic). Điều
này đạt đến đỉnh cao khi chúng khẳng định sự giải phóng hoàn toàn của cá nhân
khỏi bất cứ một định nghĩa nào về giới tính theo lối tiên thiên (a priori) có sẵn,
và việc không còn các việc phân loại bị coi là quá cứng ngắc.
Bản văn tiếp tục: “tính
sóng đôi (duality) nơi các cặp nam nữ ngoài ra còn bị xem là mâu thuẫn với ý niệm
‘đa ái’ (polyamory), nghĩa là các mối liên hệ liên quan đến hơn hai cá nhân. Vì
thế, người ta cho rằng khoảng thời gian kéo dài của các mối liên hệ, cũng như bản
chất ràng buộc của chúng, nên linh hoạt, tùy thuộc vào mong muốn thay đổi của
các cá nhân liên quan. Đương nhiên, điều này có hậu quả đối với việc chia sẻ
trách nhiệm và các nghĩa vụ cố hữu trong chức phận làm mẹ và làm cha. Loạt liên
hệ mới này trở thành ‘sự giống nhau về tính chất’ (kinship)”, vốn “dựa trên
thèm muốn hoặc tình âu yếm, thường có đặc điểm ở một khoảng thời gian giới hạn
được định sẵn, linh hoạt về mặt đạo đức hoặc thậm chí (đôi khi bằng sự đồng thuận
minh nhiên) không hy vọng có bất cứ ý nghĩa dài hạn nào”.
Bản văn giải thích rằng
Giáo Hội rõ ràng có vấn đề với tầm nhìn này về giới tính, bản sắc và mối liên hệ,
nhưng nó cũng lưu ý những điểm mà trên đó, Tòa Thánh và các nhà lý thuyết phái
tính tìm được đồng thuận và các nguồn để đối thoại, như “một mong muốn đáng
khen chống lại mọi phát biểu kỳ thị bất công” và “các hình thức kỳ thị bất công
là một sự kiện đáng buồn của lịch sử và cũng đã gây ảnh hưởng trong Giáo hội”.
Bản văn thừa nhận “Điều
trên đem đến một nguyên trạng (status quo) cứng ngắc nào đó, làm chậm diễn
trình hội nhập văn hóa cần thiết và có tính tiến bộ việc công bố sự thật của
Chúa Giêsu về phẩm giá bình đẳng của đàn ông và đàn bà, và khuyến khích các tố
cáo thuộc loại não trạng duy nam tính (masculinist mentality), núp dưới các động
cơ tôn giáo ít nhiều che đậy”.
Một điểm quan trọng khác
của đồng thuận là “nhu cầu giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên biết tôn trọng mọi
người về nét đặc thù và khác biệt của họ, để không ai phải chịu sự bắt nạt, bạo
lực, lăng mạ hoặc kỳ thị dựa trên các đặc điểm cụ thể của họ (như nhu cầu đặc
biệt, chủng tộc, tôn giáo, khuynh hướng giới tính, v.v.)”.
Tài liệu sau đó tiếp tục
phác thảo nền nhân học Kitô giáo, một nền nhân học, theo tài liệu, “có gốc rễ
trong câu chuyện về nguồn gốc con người xuất hiện trong sách Sáng thế, trong
đó, chúng ta đọc rằng ‘Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh của chính
Người … Người dựng nên họ có nam có nữ’”.
Tài liệu nói, “những lời
lẽ này nắm bắt không những bản chất của câu chuyện về sáng thế mà còn cả câu
chuyện về mối liên hệ trao ban sự sống giữa người đàn ông và người đàn bà, đưa
họ đến sự hiệp nhất với Thiên Chúa”.
Tài liệu của thánh bộ lý
luận rằng, “Cần phải khẳng định lại nguồn gốc hữu thể của sự khác biệt giới
tính, như một sự bác bỏ nhân học về các mưu toan phủ nhận tính sóng đôi
(duality) nam-nữ của bản chất con người, mà từ đó gia đình được phát sinh”.
Dựa trên giáo huấn của Đức
Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô, tài liệu nói, “việc bác bỏ tính sóng đôi này
không chỉ xóa bỏ viễn kiến coi con người như là thành quả của một hành động
sáng tạo mà còn tạo ra ý niệm coi con người như một loại trừu tượng hóa tự chọn
cho mình thứ bản tính mình muốn”.
Tài liệu viết tiếp: “Người
đàn ông và người đàn bà trong trạng thái thụ tạo của họ như các phiên bản bổ
sung của những gì là nhân bản đang bị tranh cãi. Nhưng nếu không có tính song đối
nam nữ định sẵn trong sáng thế, thì gia đình cũng không còn là một thực tại được
sáng thế thiết định. Tương tự như vậy, đứa trẻ cũng đánh mất vị trí nó chiếm hữu
được từ đó và cả phẩm giá vốn thuộc về nó”.
Tài liệu kết luận bằng
cách nói rằng “các nhà giáo dục Công Giáo được kêu gọi vượt xa mọi chủ nghĩa giản
lược có tính ý thức hệ hoặc chủ nghĩa duy tương đối có tính đồng điệu hóa
(homologizing relativism) bằng cách trung thành với bản sắc dựa trên tin mừng của
họ, hầu biến đổi cách tích cực các thách thức thời đại thành cơ hội bằng cách
đi theo con đường lắng nghe lý luận và đề xuất viễn kiến Kitô giáo, đồng thời
làm chứng bằng chính sự hiện diện của họ, và bằng sự nhất quán trong lời nói và
việc làm của họ”.
Tài liệu viết thêm, “nền
văn hóa đối thoại không hề mâu thuẫn với các nguyện vọng chính đáng của các trường
Công Giáo trong việc duy trì viễn kiến của họ về giới tính con người, phù hợp với
quyền của các gia đình được tự do giáo dục con cái theo một nền nhân học toàn
diện, có khả năng hài hòa bản sắc thể lý, tâm linh và thiêng liêng của con người”.
Đón đọc: Văn Kiện “Người
Dựng Nên Họ Có Nam Có Nữ”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét