Ủy ban Phụng Tự giải thích quy định về Giảng lễ, Đặt tay và Rảy nước phép
Thứ
sáu - 14/06/2019-tinvui.org
Ủy ban Phụng Tự giải
thích quy định về Giảng lễ, Đặt tay và Rảy nước phép
Một linh mục có được phép
đưa những người làm chứng lên chia sẻ trong phần bài giảng của mình không?
1- Theo giáo luật (điều
767, 1), việc giảng lễ chỉ dành riêng cho tư tế hoặc phó tế. Vậy, một linh mục
có được phép đưa những người làm chứng lên chia sẻ trong phần bài giảng của
mình không?
Thực hành đưa những người
làm chứng lên chia sẻ trong phần bài giảng thuộc về phạm trù “giáo dân thuyết
giảng”. Đúng là theo giáo luật (điều 767, 1) và được Quy chế Tổng quát Sách lễ
Rôma [2002] (số 66) cũng như Huấn thị Bí tích Cứu độ [2004] (các số 64-66; 161)
nhắc lại, việc giảng lễ chỉ dành riêng cho tư tế hoặc phó tế và không bao giờ
trao cho một giáo dân. Thế nhưng, tín hữu giáo dân lại được phép “chia sẻ”
trong thánh lễ [chứ không phải giảng lễ] qua những hướng dẫn và làm chứng của họ
bằng việc suy niệm Lời Chúa, giải thích bản văn Kinh Thánh hoặc thuyết trình.
Tuy nhiên, ngay cả bài giảng lễ của LM và PT cũng không được xem như thời gian
dành cho các ngài chia sẻ chứng tá cá nhân với những câu chuyện riêng tư của
mình mà bài giảng lễ phải diễn tả đức tin của GH (Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí
tích, Chỉ Nam Giảng Lễ, số 6), bởi vậy, phải thật cẩn trọng khi đưa người làm
chứng trong thánh lễ và tuân giữ những gì nói tiếp dưới đây:
1. Thực hành này phải được
HĐGM cho phép. Chẳng hạn HĐGM Hoa Kỳ chỉ cho phép giáo dân chia sẻ trong một
vài trường hợp như: khi vắng hay thiếu hụt giáo sĩ, khi đòi hỏi phải sử dụng một
ngôn ngữ khác biệt hoặc liên quan đến lãnh vực thuộc về chuyên môn hay kinh
nghiệm của giáo dân, nhưng không bao giờ giáo dân được giảng trong thánh lễ
(USCCB Decree, 13/12/2001, BCL Newletter 37 [2001] 49-50). Nếu như HĐGM không
ra chỉ thị về vấn đề này, thì phải tuân theo các quy luật liên quan đến việc giảng
thuyết được ban hành bởi ĐGM giáo phận (Bộ Giáo Luật, số 756#2; 772#1);
2. Nếu thấy cần để một
giáo dân lên thông báo tin tức hay trình bày một chứng từ đời sống kitô hữu cho
các tín hữu tụ họp trong nhà thờ/ nhà nguyện, cách chung nên làm việc này ngoài
thánh lễ. Nhưng mà, vì những lý do nghiêm trọng, được phép trình bày loại thông
báo hay chứng từ này khi linh mục đã đọc xong lời nguyện Hiệp Lễ chứ không được
đưa họ lên làm chứng trong phần bài giảng của thánh lễ. Tuy vậy, một việc làm
như thế không được trở thành thói quen, nghĩa là thuộc trường hợp ngoại lệ chứ
không phải thường lệ. Hơn nữa, việc chia sẻ và làm chứng phải mang hình thức ngắn
gọn, phải luôn luôn hòa hợp với các quy tắc phụng vụ, được trình bày trong những
dịp đặc biệt mà thôi (chẳng hạn như ngày của chủng viện, ngày bệnh nhân, v.v…),
cũng như không được xem nó như là một sự thăng tiến chính thức của hàng giáo
dân. Đồng thời, những thông báo và chứng từ này không được có những đặc tính có
thể làm lẫn lộn chúng với bài giảng lễ, và cũng như không là nguyên nhân để loại
bỏ hoàn toàn bài giảng (Xc. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Huấn thị Bí tích Cứu
độ, các số 74, 161; Bộ Giáo sĩ và Các Bộ khác, Huấn thị liên bộ về một số vấn đề
liên quan đến việc giáo dân cộng tác vào sứ vụ của các linh mục, Ecclesiae de
mysterio, 15/08/1997, số 3: AAS 89 (1997), 852-877)
3. Người chia sẻ hay làm
chứng phải là một tín hữu công giáo vì theo Bộ Giáo Luật: (1) Những người giảng
Lời Chúa, trước hết hãy trình bày những điều cần phải tin và phải làm nhằm vinh
danh Chúa và cứu rỗi nhân loại; (2) Cũng phải trình bày cho tín hữu giáo thuyết
Hội Thánh dạy về nhân phẩm và tự do của con người, về sự duy nhất và sự vững bền
cùng những trách vụ của gia đình, về những bổn phận của những người công dân sống
trong xã hội, và cả về việc điều hành những việc trần thế theo trật tự Chúa đã ấn
định (điều 768).
4. Chỉ đôi khi giáo dân mới
chia sẻ trong thánh lễ với trẻ em trong trường hợp thánh lễ đó có ít người lớn
tham dự nhất là khi vị gỉang lễ tự thấy rằng mình khó có thể thích ứng hay đồng
cảm với tâm trí của trẻ em. Việc chia sẻ này được sự đồng ý của cha sở hay quản
nhiệm nhà thờ trên căn bản là quyền ban phép thực thụ cho thực hành này chỉ thuộc
thẩm quyền của các Đấng Bản Quyền sở tại mà thôi [như đã nói ở số 1) trên], và
luôn luôn là ad actum, chứ không thuộc quyền ai khác, kể cả các linh mục hay
phó tế (Bộ Phụng Tự, Hướng dẫn Thánh lễ với Trẻ em, 01/11/1973, AAS 66 [1974],
24; Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 161). Và chỉ thỉnh thoảng giáo dân mới chia sẻ
như một phần phụ thêm vào bài giảng lễ của LM hay PT hoặc có thể thay thế cho
bài giảng lễ khi vị giảng lễ (LM hoặc PT) bị ngăn trở về thể lý hay luân lý. Vì
dầu sao, sự trợ giúp này không được dự liệu để đảm bảo cho người giáo dân tham
dự đầy đủ hơn, nhưng, tự bản tính, nó là bổ sung và tạm thời; còn bổn phận đầu
tiên của những người có chức thánh vẫn là rao giảng Lời Chúa cho dân Chúa nhằm
thánh hóa họ và để tôn vinh Thiên Chúa (Bộ Giáo Luật, số 213; 756#2; 757; 762
và 772#1; Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 151).
2- Nghi thức đặt tay có ý
nghĩa gì trong các cử hành phụng vụ? Việc Rẩy Nước phép trong nghi thức phụng vụ
được phép thực hiện như thế nào?
A-
Nghi thức đặt tay có ý nghĩa gì trong các cử hành phụng vụ?
Hành động đặt tay bằng
cách đặt một tay hay hai tay trên một ai đó hay trên một vật thể nào đó là cử
chỉ mang ý nghĩa bí tích. Vì thế, cử điệu này được vị chủ sự cử hành phụng vụ sử
dụng trong nhiều nghi thức phụng vụ với những ý nghĩa như sau:
·
Nài xin Chúa Thánh Thần ngự xuống (x. Cv 8,17.19-20; 19,6) thánh hóa lễ phẩm
bánh và rượu [trong phần Kinh Nguyện Thánh Thể] để trở nên Mình và Máu Chúa
Kitô hoặc diễn tả việc ban phép lành trọng thể cho đoàn dân trong thánh lễ
nhưng hai tay của vị chủ tế phải giơ cao hơn những trường hợp khác (Xc. Lễ nghi
Giám mục, số 105;106).[1]
·
Sai
đi hay trao ban một sứ vụ (x. Cv 6,2-6; 13,2-3; 12Tm 4,14; 2Tm 1,6): như diễn
ra trong nghi thức phong chức PT, LM và GM (QCSL, số 4). Cử điệu đặt tay của Đức
Giám mục chủ phong trên các tiến chức bấy giờ diễn tả mối tương quan hiệp thông
giữa tiến chức với Thiên Chúa và Hội Thánh để nhờ sự nâng đỡ của Thiên Chúa và
cộng tác của toàn thể Hội Thánh họ có thể vươn tới Đấng Tuyệt Đối cũng như hoàn
thành sứ vụ được trao phó.[2]
·
Ban ơn tha thứ và hòa giải (1Tm 5,22).
·
Chữa lành (x. Mt 7,32; 8,23-24; Mc 16,17-18; Lc 4,40; 13,13; Cv 28,8): như
trong phép xức dầu bệnh nhân. Trong trường hợp có số đông bệnh nhân muốn lãnh
nhận bí tích này thì không cần LM đặt tay trên từng người mà chỉ đặt tay trên một
bệnh nhân đại diện thôi (Sách Lễ nghi Giám mục, số 653).[3] Cử điệu này nhằm 2
mục đích: [i] Cầu nguyện cho tâm hồn và thân xác người bệnh được mạnh mẽ trước
những đau đớn và thử thách hiện tại họ phải đương đầu; [ii] Cộng đồng Hội Thánh
chia sẻ gánh nặng họ đang phải mang và như muốn nói với bệnh nhân rằng họ không
cô đơn khi phải mang vác những gánh nặng như thế.[4]
B - Việc Rẩy Nước phép trong nghi thức phụng vụ được phép thực hiện
như thế nào?
Nước thánh biểu trưng cho
sự thanh tẩy. Trong bí tích Rửa tội, người ta dìm, rảy hoặc đổ nước trên thụ
nhân bởi nước được coi là chất liệu chính yếu của bí tích này (x. Ga 3,5). Nước
thánh là một phụ tích, vì thế được dùng để rảy trên người, trên vật thể và nơi
chốn tùy nghi thức như dấu hiệu dùng trong việc ban phép lành và mang nhiều ý
nghĩa khác nhau.
Rảy nước thánh trên các
tín hữu nhắc nhớ họ về bí tích Tái sinh đã lãnh nhận nhờ đó họ sẽ cùng chết,
mai táng và phục sinh với Chúa Kitô, nghĩa là được thông dự vào cuộc chiến thắng
của Chúa Kitô trên tội lỗi và sự chết; nghi thức này cũng đề cao “chức tư tế cộng
đồng của tín hữu”[5] và nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa bí tích Rửa tội và việc
tham dự thánh lễ của họ.[6]
Việc rảy nước thánh trên
vật thể và nơi chốn khi làm phép nhắc nhở chúng ta sử dụng các thực thể ấy vào
mục đích tốt đẹp theo thánh ý Chúa Cha.[7]
Với ý nghĩa như vậy, việc rẩy nước thánh được phép thực hiện trong
nhiều trường hợp, ví dụ như:
·
Ngày
Chúa nhật, nhất là trong mùa Phục sinh, thay vì hành động thống hối thường lệ,
đôi khi có thể làm phép và rảy nước thánh trên dân (xc. phần phụ lục II của
Sách lễ Rôma 2002, 177-181; QCSL 51). Trong lễ Đêm Vọng Phục sinh, các tín hữu
được rẩy nước thánh sau khi lập lại những lời cam kết của bí tích Rửa tội.
·
Trong
nghi thức an táng, việc rảy nước thánh trên thi hài của tín hữu cũng nhắc nhở
bí tích Thánh tẩy người đó đã lãnh nhận và nhờ bí tích này họ được đưa vào đời
sống vĩnh cửu.[8]
·
Trong lễ cưới, linh mục làm phép nhẫn cưới với nước thánh không chỉ như một
hành vi thanh tẩy mà còn là một dấu hiệu “sương rơi từ trên”. Sương rơi xuống mặt
đất sẽ làm trổ sinh sự sống và phong nhiêu, do đó, ý nghĩa của việc làm phép nhẫn
là hồng phúc của Thiên Chúa sẽ xuống trên đôi hôn nhân và sự phồn thịnh sẽ đến
với gia đình họ.[9]
·
Làm
phép và rảy nước thánh trên ảnh tượng thánh; vật dụng thánh dùng trong phụng vụ;
lá trong ngày lễ Lá; tro trong ngày thứ tư lễ Tro, nến trong thánh lễ dâng Chúa
vào đền thánh (2/2) ...
Những điểm sau đây cần lưu ý khi rảy nước thánh trong thánh lễ:
·
Nghi thức rảy nước thánh thay cho hành động thống (QCSL 51) chỉ được phép diễn
ra trong thánh lễ, chứ không bên ngoài thánh lễ như trong hình thức thánh lễ
ngoại thường.[10]
· Nếu một giáo xứ lớn
với khá đông người tham dự Thánh lễ và phải mất nhiều thời gian mới rảy xong,
nên sử dụng thêm nhiều bình chứa khác. Các thừa tác viên sẽ chia nhau rẩy trong
khu vực được phân công cho mình với một giúp lễ cầm bình nước thánh đi theo.[11]
·
Không rảy nước thánh từ phía sau lưng dân chúng.[12]
·
Đừng bao giờ làm nghi thức rẩy nước thánh quá long trọng đến nỗi làm lu mờ việc
cử hành Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể.[13]
· Chủ đề của bài
thánh ca đi kèm nghi thức rẩy nước thánh phải liên quan đến ý nghĩa của nước,
bí tích Thánh tẩy hay công cuộc canh tân đời sống.[14]
Ủy ban Phụng tự trực thuộc
Hội đồng Giám mục Việt Nam
Tháng 3 năm 2019
------------------
[1] Xc. Peter Elliott,
Ceremonies of the Modern Roman Rite, số 191.
[2] Xc. Antonio Donghi,
Words and Gesture in the Liturgy, 49.
[3]Xc. Edward McNamara,
“Healing Masses” từ The ZENIT Daily Dispatch © Innovative Media, Inc.
(21/07/2009).
[4]Xc. Antonio Donghi,
Words and Gesture in the Liturgy, 50.
[5] Hiến Chế Tín Lý về
Giáo Hội Lumen Gentium, số 10.
[6] Xc. Edward Foley,
“The Structure of the Mass, Its Elements and Its Parts”, trong ed. Edward
Foley, A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal
(Collegeville, MN: A Pueblo/ The Liturgical Press, 2007),142.
[7] Xc. Antonio Donghi,
Words and Gesture in the Liturgy, dg. William McDonough, Dominic Serra, Ted
Bertagni (Collegeville, MN: Liturgical Press, 2009), 48.
[8] Xc. Emilio
Higglesden, “Signs and Symboles: A Reflection”, Faith – Vol. 117, No. 4, 1990.
[9] Xc. Ibid.
[10] Xc. Edward McNamara,
“Phó tế hoặc thừa tác viên giáo dân rảy nước thánh được không?”, dg. Nguyễn Trọng
Đa, từ Zenit.org (24/05/2016).
[11] Xc. Denis C.
Smolarski, Q & A: The Mass (Chicago: Liturgy Training Publications, 2002),
6-7.
[12] Ibid.
[13] Ibid.
[14] Dominic Thuần, sss,
Cử hành Thánh lễ (Hoa Kỳ: Dân Chúa, 1994), 32.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét