15/08/2021- Chúa Nhật
Tuần XX Mùa Thường Niên Năm B
ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
HOAN CA ĐỨC MẸ
Đức Mẹ Về Trời Vinh Quang Chói Sáng
Monday,
August 9, 2021
Nữ
Vương Mông Triệu Nguyện Giúp Cầu Thay
https://thanhlinh.net/node/149191
Cuộc đời Đức Mẹ đầy đau
khổ nhưng lại là khúc hoan ca tuyệt vời, vì Đức Mẹ luôn tín thác và tuân phục
tuyệt đối. Đức Mẹ được về trời cả hồn xác, nên Đức Mẹ cũng muốn mọi người cũng
được về trời với Mẹ. Tại Fátima, Đức Mẹ nhắn nhủ: “Nếu loài người biết vĩnh cửu
là gì thì họ sẽ làm mọi thứ để thay đổi cuộc đời.”
Cái gì cũng có cái giá nhất
định, thậm chí rất đắt. Đại dịch cúm Tàu nhắc nhở về cái chết bất ngờ, và cũng
là lời nhắc nhở về sự sống đời đời. Cầu chúc mọi người luôn biết hướng thượng,
luôn “ái mộ những sự trên trời” để “được chết lành trong tay Đức Mẹ” và sẽ “được
thưởng cùng Đức Mẹ trên Thiên Đàng.”
Đức Mẹ về trời là dấu chỉ
chắc chắn có Thiên Đàng, các thánh đã tái xác nhận điều đó, đúng như Chúa Giêsu
đã hứa: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em
rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy LẠI
ĐẾN và ĐEM anh em VỀ VỚI THẦY, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu
thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14:2-4) Chúa Giêsu nói rõ ràng là VỀ trời chứ
không LÊN trời bình thường.
Về trời là niềm hy vọng lớn
nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô. Về trời
không là chuyện viễn vông như chú Cuội lên cung trăng, cũng không như kiểu tham
quan mặt trăng, khám phá một hành tinh nào đó, mà về trời để hưởng phúc trường
sinh với Thiên Chúa, sau khi chúng ta được sống lại.
Ngày xưa, trong lúc ông
Êlia đang nói chuyện với ông Êlisa thì xuất hiện “một cỗ xe đỏ như lửa và những
con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra, và ông Êlia LÊN TRỜI trong cơn gió lốc.”
(2 V 2:11) Thời Tân Ước, tướng cướp Dismas cả đời gian ác, không coi ai ra gì,
bị đóng đinh bên Chúa Giêsu, nhưng nhờ sám hối chân thành, Dismas đã được Chúa
Giêsu tha thứ và cho về trời ngay: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên
Đàng.” (Lc 22:43) Đặc biệt là Đức Mẹ được về trời qua một “giấc ngủ” – chết mà
như ngủ (dormition).
Theo Lm Pohle và Lm
Scheeben, mấy thế kỷ đầu không có dấu tích gì về lòng tin Đức Mẹ Maria lên trời.
Nhưng một cái quách (sarcophagus) đầu thế kỷ IV ở nền nhà thờ Santa Engracia tại
TP Saragossa (Tây Ban Nha) có bức chạm trổ hình Đức Mẹ lên trời. Chứng tích của
Thánh Epiphanô cho biết người ta tin Đức Mẹ Maria bất tử và thân xác Mẹ vinh
quang, niềm tin này đã được truyền bá sâu rộng trong một ít giáo đoàn như ở
Antiokia. Do xác tín và ngợi khen “Chức Phẩm Thiên Mẫu” và “Đức Đồng Trinh” của
Mẹ là hai căn nguyên. Thánh Epiphanô mở đường cho lòng tin và sự xác quyết của
các Giáo phụ, các Giáo hoàng, các Giám mục, các thần học gia và toàn thể Giáo hội.
Trước thời Hoàng đế Constantinope đã diễn ra một cuộc lễ trong nhà thờ trên núi
Cây Dầu tại Giêrusalem, truyền thống gọi là lễ “Đức Mẹ An Giấc.”
Đức Alexanđrô III nói: “Mẹ
Maria thụ thai không bị xấu hổ, sinh con không bị đau đớn, từ trần không bị hư
hoại trong mồ, vì theo lời Thiên thần, Mẹ đã được đầy ơn.” Đức Piô XII nối tiếp
các vị tiền nhiệm về niềm tin đó. Trong Thông điệp “Corporis Mystici”
(29-6-1943), ngài viết: “Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của
Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái tim Mẹ. Ngày nay ở
trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ toả sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với
Con của Mẹ.”
ĐGH Piô XII gởi Thông điệp
“Deiparae Virginis” (1-5-1946) tới các giám mục khắp thế giới, cho biết rằng từ
năm 1840 đến năm 1940, số đơn thỉnh nguyện xin Toà Thánh định tín Mẹ Maria hồn
xác lên trời đã đóng thành hai cuốn sách. Ngày 30-10-1950, Đức Thánh Cha gửi
tông thư cho Cơ Mật Viện, loan báo vào ngày mồng 1-11-1950 là một biến cố quan
trọng và là niềm vui lớn lao cho toàn thế giới Công giáo: Công bố tín điều Đức
Mẹ hồn xác lên trời. Đó là nhờ ơn soi sáng tác động của Chúa Thánh Thần và ơn
trợ lực của Thiên Chúa.
Cuối cùng, ngày
1-11-1950, Thánh Ý Chúa thể hiện qua ĐGH Piô XII với Thông điệp
“Munificentissimus Deus” – Thiên Chúa Quảng Đại: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi
nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem
lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương,
dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu
lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích
chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt
yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội đã nhận biết
và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng
đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời.”
Hòm Bia là dấu chỉ Thiên
Chúa hiện diện, rất quan trọng. Trình thuật 1 Sb 15:3-5 cho biết: “Thời Cựu Ước,
vua Đa-vít triệu tập toàn thể Israel về Giêrusalem để rước Hòm Bia của Đức Chúa
lên chỗ vua đã dọn sẵn. Vua cũng tập hợp con cháu ông Aharon và các thầy Lêvi:
trong hàng con cháu ông Cơhát, có ông Uriên chỉ huy, và các anh em của ông, tất
cả là một trăm hai mươi người.” Hòm Bia “được làm bằng gỗ keo, dài một thước
hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi, được bọc bằng vàng ròng cả trong lẫn
ngoài, phía trên có một đường viền chung quanh bằng vàng.” (Xh 25:10-11)
Luật xưa nghiêm túc: Khi
khiêng Hòm Bia phải dùng đòn, đã xỏ đòn vào thì không được rút ra. (Xh 25:15)
Kinh Thánh cho biết thêm: “Con cháu Lêvi mang Hòm Bia Thiên Chúa đúng như ông
Môsê đã truyền theo lệnh của Đức Chúa, là dùng đòn mà khiêng trên vai. Vua
Đavít truyền cho những người đứng đầu các thầy Lêvi bố trí các ca viên, anh em
của họ, để những người này dùng nhạc khí như đàn sắt, đàn cầm, não bạt mà tấu
khúc hoan ca.” (1 Sb 15:15-16)
Còn nữa, 1 Sb 16:1-2 cho
biết: “Người ta đưa Hòm Bia Thiên Chúa vào đặt giữa Lều vua Đavít đã dựng sẵn.
Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an trước nhan Thiên Chúa. Khi đã hoàn tất việc
dâng các lễ toàn thiêu và lễ kỳ an, vua Đavít nhân danh Đức Chúa chúc phúc cho
dân.” Người ta đặt Chứng Ước của Thiên Chúa vào Hòm Bia, (Xh 25:16) do đó gọi
là Hòm Bia Giao Ước.
Thánh Vịnh cho biết: “Này
đây, khi ở Épratha, chúng tôi đã nghe nói đến hòm bia, chúng tôi tìm thấy hòm
bia đó tại cánh đồng Giaa. Nào ta tiến vào nơi Chúa ngự, phủ phục trước bệ rồng.”
(Tv 132:6-7) Chỉ nơi nào có Thiên Chúa thì mới là nơi vĩnh phúc đích thực, nơi
mà ai cũng hướng tới với niềm khao khát cháy bỏng. Thánh Vịnh gia khát vọng: “Ước
chi hàng tư tế của Ngài mặc lấy sự công chính, kẻ hiếu trung với Ngài được cất
tiếng hò reo. Vì vua Đa-vít, trung thần của Chúa, xin đừng xua đuổi đấng Chúa
đã xức dầu phong vương.” (Tv 132:9-10) Muốn vậy thì chính bản thân phải biết hướng
thượng và sống tốt càng ngày càng tiến bộ hơn, chứ không thể giậm chân tại chỗ,
không thể ù lì hoặc gặp chăng hay chớ.
Thuở xưa, chính Đức Chúa
đã chọn Sion, đã thích lấy chốn đó làm nơi Ngài ngự, như Ngài công khai tuyên
phán: “Đây là chốn Ta nghỉ ngơi đến muôn đời, Ta sẽ ngự nơi này, vì Ta ưa thích.”
(Tv 132:14) Nhà Chúa là Nhà Cầu Nguyện của mọi dân tộc. (Mt 21:13; Mc 11:17; Lc
19:46)
Đức Maria là Nhà Tạm đầu
tiên, vì Đức Mẹ là Đấng-Mang-Thiên-Chúa (Theotókos, God-Bearer). Thực sự chúng
ta cũng đã và đang được diễm phúc tương tự mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta
được mang chính Đấng Cứu Thế trong lòng và hòa tan để kết hiệp mật thiết với
Ngài, dù chúng ta chỉ là những tội nhân hoàn toàn bất xứng.
Thánh Phaolô nói: “Vậy
khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này mặc
lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị
chôn vùi. Đây giờ chiến thắng!” (1 Cr 15:54) Chiến thắng cái chết để được phục
sinh và trường sinh. Cùng với Đức Kitô và Đức Mẹ, cùng với Thánh Phaolô, chúng
ta có thể dõng dạc vặn hỏi tướng quỷ Luxiphe: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng
của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tử thần có độc là vì tội lỗi,
mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật.” (1 Cr 15:55-56) Ước gì mỗi chúng ta đều
khả dĩ như vậy!
Là Thiên Chúa, nhưng Thầy
Giêsu vẫn có hiếu với Đức Mẹ. Điều này “nhắc nhở” chúng ta về chữ hiếu thảo.
Ngài xác định một mối phúc đặc biệt: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời
Thiên Chúa.” (Lc 11:28) Kỳ lạ quá, “nghe và giữ Lời Chúa” mà còn có phúc hơn
người cưu mang Ngài. Có lẽ chúng ta không dám tin, nhưng đó lại là sự thật. Điều
đó chứng tỏ rằng việc sống Lời Chúa vô cùng quan trọng.
Đức Mẹ là thụ tạo đặc biệt
của Thiên Chúa. Ngay cả Hồi giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ
cao cả nhất trong Kinh Koran (Kinh Thánh của Hồi giáo). Có rất nhiều tôn danh
dành cho Đức Mẹ: Nữ vương Hòa bình, Đức Nữ Trinh Vương, Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo
Hữu, Đức Mẹ Ban Ơn, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức
Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,... và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên
khắp thế giới, riêng Việt Nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ
Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu, Đức Mẹ Núi Cúi, Đức Mẹ Bãi Dâu,...
Thánh Vịnh gia đã ca tụng:
“Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang
điểm vàng Ô-phia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy
lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng
ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà.” (Tv 45:10-12) Chắc hẳn phàm ngôn
không thể đủ để diễn tả về Đức Mẹ cho xứng đáng, chúng ta chỉ biết dùng những
ngôn từ nào cao trọng nhất để tôn xưng Đức Mẹ mà thôi.
Ai trong chúng ta cũng là
tội nhân, thế nên mọi người đều phải bước qua “ngưỡng cửa sự chết” theo luật
sinh tử. Nhưng chết không là chấm hết, mà là biến đổi, như Thánh Phanxicô
Assisi xác định: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” Chết đi để được
sống lại. Chính Đức Kitô cũng đã chết và phục sinh để bảo đảm về chuyện đời
sau. Chết là trực tiếp gặp Thiên Chúa, gặp Đức Kitô, và cũng gặp Đức Mẹ nữa.
Niềm hy vọng của Kitô hữu
thật lớn lao và tuyệt vời, nhưng Thánh Phaolô nói: “Nếu chúng ta đặt hy vọng
vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết
mọi người.” (1 Cr 15:19) Niềm hy vọng của chúng ta không như vậy, bởi vì “Đức
Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu
tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống
lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ
liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống.” (1 Cr 15:20-22) Niềm hy
vọng của Kitô hữu vượt ngoài thế gian này.
Kẻ trước người sau, như
lá rụng về cội, dù lá còn xanh hay đã vàng. Thánh Phaolô giải thích: “Mỗi người
theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến
lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt
hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại
cho Thiên Chúa là Cha.” (1 Cr 15:23-24)
Tất cả đều xảy ra đúng
theo trật tự Thiên Chúa đã ấn định, như chúng ta thường nói là Thiên Chúa an
bài. Chúng ta không thể hiểu thấu, nhưng sự thật là vậy: “Đức Kitô phải nắm
vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch
cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết.” (1 Cr 15:25-26) Chính Đức Kitô đã dùng thập
giá để chiến thắng tất cả, và cũng chính trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự
thù ghét (x. Ep 2:16) để minh chứng tình yêu vô biên và sâu thẳm, là Lòng
Thương Xót mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Hoan Ca Maria chỉ xuất hiện
trong trình thuật Lc 1:42-55. Thánh sử Luca cho biết: Hồi ấy, Cô em Maria vội
vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Cô vào nhà Anh
Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào,
thì đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền
kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người
con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến
với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong
bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện
những gì Người đã nói với em.”
Một cuộc gặp gỡ lịch sử
giữa hai phụ nữ đặc biệt, theo sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa. Một
người là mẹ Thiên Chúa, còn một người là Mẹ của Vị Tiền Hô Gioan. Thấy Em họ
Maria đến, Chị Êlisabét vui mừng thốt lên những lời đầy Thần Khí. Sau đó, Đức
Maria cũng rất vui mừng và dâng lời Kinh Ngợi Khen (Magnificat), vừa như thơ vừa
như nhạc:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người
đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ
khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho
tôi biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh
chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa
hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức
mạnh,
Dẹp tan phường lòng trí
kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền
thế,
Người nâng cao mọi kẻ
khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của
đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về
tay trắng.
Chúa độ trì Israel, tôi tớ
của Người,
Như đã hứa cùng cha ông
chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng
thương xót
Dành cho tổ phụ Ápraham
và cho con cháu đến muôn đời.
Đức Mẹ đã chứng tỏ lòng
yêu thương với tha nhân khi vội vã đi thăm Chị Êlisabét, và cũng muốn chứng tỏ
tình yêu thương đó qua việc ở lại giúp đỡ người chị đang mang thai trong ba
tháng đầu của thai kỳ. Đức Maria ở lại với Chị Êlisabét độ ba tháng, rồi mới trở
về nhà.
Đường về dù xa hay gần,
đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta an
tâm. Cứ bám chặt vào áo Mẹ thì không lo lạc đường, chắc chắn sẽ đi đến nơi về đến
chốn. Thánh Birgitta Thụy Điển cho biết: “Dù trong tình trạng thù nghịch với
Thiên Chúa đến đâu đi nữa, không tội nhân nào trên trần gian này lại không thể
quay về với Ngài và được phục hồi ơn thánh, nếu họ chạy đến nương nhờ và cầu
xin Đức Mẹ Maria hộ phù.”
Lạy Thiên Chúa, chúng con
tạ ơn Ngài vì Ngài đã ban cho mỗi chúng con có hai người mẹ – một người mẹ trần
gian tuyệt vời, và đặc biệt là một Người Mẹ Thánh là Đức Maria, để nâng đỡ
chúng con về thể lý và tâm linh. Xin giúp chúng con luôn biết sống xứng đáng với
những gì chúng con lãnh nhận.
Lạy Mẫu Nghi cao cả, xin
đồng hành và nâng đỡ chúng con luôn, xin dẫn chúng con đến với Chúa Giêsu, Con
Yêu Dấu của Mẹ, để chúng con cũng được đoàn tụ trong Đại Gia Đình Thiên Chúa
trên Thiên Quốc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất
của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét