Chiều Thứ Bẩy
11-4-2015, tại đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban hành
tông sắc ấn định Năm Thánh Ngoại thường về lòng thương xót của Chúa. Năm Thánh
này sẽ bắt đầu từ ngày 8-12 năm nay và kết thúc vào ngày 20-11-2016, lễ Chúa
Kitô Vua.
Tông sắc, tựa đề “Misericordiae vultus” (Khuôn mặt thương
xót), gồm ba phần. Trong phần đầu, Đức Phanxicô đào sâu ý niệm thương xót;
trong phần hai, ngài trình bày một số gợi ý để cử hành Năm Thánh. Sau cùng,
phần ba chứa đựng một số lời kêu gọi.
Theo Đức Phanxicô,
lòng thương xót là chức năng chính của Giáo Hội và là khía cạnh chủ chốt trong
thừa tác vụ và việc làm của Chúa Giêsu Kitô. Lòng thương xót là phẩm tính chủ
chốt trong các hành động của Thiên Chúa đối với loài người. Và ta được phán xét
tùy theo lượng thương xót của ta.
Ở phần hai của tông
sắc, trong số các gợi ý để cử hành năm thánh thương xót, Đức Phanxicô đặc biệt
nêu ra sáng kiến: trong mùa chay 2016, ngài sẽ cử các nhà truyền giáo mà chính
ngài gọi là các nhà truyền giáo của lòng thương xót tới các giáo phận để giải
tội. Các vị này sẽ được trao quyền giải cả các tội chỉ có Tòa Thánh mới được
giải.
Trong khung cảnh cuộc
tranh luận nóng bỏng về những người ly dị và tái hôn hiện nay, nhiều người hy
vọng phải chăng các vị linh mục của lòng thương xót này được quyền “tha tội” cho nhóm người này để họ được
rước lễ. Điều này hình như không hẳn đúng. Trước nhất vì đây chỉ là một sáng
kiến “ad hoc”, áp dụng cho Mùa Chay
của năm thánh thương xót mà thôi. Thứ hai, trong số “các tội” mà chỉ có Tòa Thánh được phép tha, không thấy có tội “bất chấp tính thành sự của hôn nhân thứ nhất, cứ kết hôn ở tòa đời lần thứ hai”.
Thực vậy, các tội chỉ có Tòa Thánh mới tha bao gồm: tội phạm tới Thánh Thể, ám
sát Đức Giáo Hoàng, linh mục phạm ấn tín giải tội, linh mục phạm điều răn thứ
sáu với ai rồi ban phép giải tội cho họ, và người tham dự vào việc phá thai sau
đó xin đi tu làm linh mục hay phó tế.
Trong phần ba của tông
sắc, người ta lưu ý tới đoạn Đức Phanxicô nói về mối tương quan giữa công lý và
lòng thương xót. Đây không phải là hai khía cạnh tương phản nhau, mà là hai
chiều kích của cùng một thực tại duy nhất, vì “Công lý của Thiên Chúa chính là sự tha thứ của Chúa”, “lòng thương xót không trái với công lý”,
vì qua lòng thương xót, Thiên Chúa cống hiến cho tội nhân cơ hội “hồi tỉnh lại, hoán cải và tin tưởng”.
I. Lòng thương xót
dưới cái nhìn của các tâm lý gia
Tóm lại, lòng thương
xót sẽ là chủ đề lớn, không những chỉ khởi đầu được bàn bạc học hỏi từ tháng
Mười Hai năm nay mà là ngay lúc này, khi toàn thể Giáo Hội đang chuẩn bị bước
vào cuộc thảo luận vĩ đại về gia đình mà ai cũng biết là một định chế đang gặp
nhiều khủng hoảng lớn lao, nhiều đau khổ cùng cực cần được nhìn bằng một lượng
từ bi thương xót không những của Thiên Chúa mà của những người đồng đạo xưa nay
quá thiên về tinh thần vụ luật mà quên đi tình người, tình xót thương vốn là
đặc điểm chủ yếu của Thiên Chúa, của Giáo Hội và do đó của mọi tín hữu Chúa
Kitô.
Trong số các suy nghĩ
gần đây, chúng tôi thấy có sự đóng góp của Viện Khoa Học Tâm Lý đặt trụ sở tại
Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, đăng ba kỳ trên bản tin hằng ngày của Zenit bắt đầu từ
ngày 8 tháng Tư, tựa là “What will it
mean to have a year of mercy” (tổ chức năm thương xót có nghĩa gì).
1. Tiếp nhận thương
xót dẫn tới cuộc sống thăng hoa
Suy tư đầu tiên, tựa
đề là "Receiving God’s Mercy Leads
to a Flourishing Life" (Tiếp
Nhận Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa Dẫn Tới Cuộc Sống Thăng Hoa), được viết bởi
Linh Mục Charles Sikorsky, L.C., viện trưởng của Viện.
"Hãy thương xót như Cha các con là Đấng
Thương Xót” (Lc 6:36). Lời của Chúa Kitô là chìa khóa mở Năm Thương Xót mà
Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi ta cử hành vào đầu tháng Mười Hai này, như một
Giáo Hội.
Có nhiều lý do khiến
chủ đề thương xót trở thành chủ yếu đối với triều giáo hoàng của Đức Phanxicô.
Trong thừa tác vụ giáo hoàng của ngài, và cả lúc còn là một linh mục và một
giám mục, Đức Phanxicô đã nhấn mạnh rất nhiều tới gia trị của lòng thương xót,
coi nó như giờ phút của hồi tâm và là nền tảng của việc canh tân Giáo Hội. Thực
vậy, trong bài giảng lúc công bố năm thương xót, ngài nhận diện chứng tá thương
xót của Giáo Hội như “cuộc hành trình bắt
đầu với việc hồi tâm thiêng liêng”.
Bất kể trong tòa giải tội hay tại các khu bùn lầy nước đọng, ngài đều nhận ra
sự kiện này: lòng thương xót của Thiên Chúa giải thoát ta và ban cho ta sự bình
an không thể tìm thấy nơi thế gian này. Nó thúc đẩy ta trở thành các Kitô hữu
tốt hơn.
Đối với Viện Khoa Học
Tâm Lý, lòng thương xót không phải chỉ là một từ ngữ thần học dành cho các bài
giảng lễ Chúa Nhật, mà là một thực tại biến đổi cuộc sống, cả thiêng liêng lẫn
nhân bản. Các khoa học xã hội ngày càng hỗ trợ nhiều hơn con số các giáo huấn
của Giáo Hội bằng cách chứng minh rằng cuộc sống tinh thần và thiêng liêng lành
mạnh là chìa khóa của cuộc sống hạnh phúc và thăng hoa.
Hiệu quả của lòng Chúa
thương xót được nhìn thấy không những trên bình diện siêu nhiên, mà còn cả trên
bình diện nhân bản và tâm lý nữa. Trong cuốn Whatever Became of Sin,
Karl Menninger, một nhà phân tâm học Do Thái, đã đào sâu chủ đề này. Ông cho
rằng có một nối kết giữa việc lãnh nhận bí tích hoà giải và sự lành mạnh tâm
lý, thành thử ông đã khuyên các bệnh nhân Công Giáo của ông năng lãnh nhận bí
tích này. Ông thấy bệnh nhân nào lãnh nhận Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đều
không còn mặc cảm tội lỗi và do đó, có khả năng hơn trong việc trở thành những
người Thiên Chúa muốn họ trở thành. Dù không phải là người Công Giáo, Menninger
thường xuyên khuyên các bệnh nhân thực hành việc này và đã quyết định viết một
cuốn sách nói về nhu cầu con người cần đương đầu với mặc cảm tội lỗi.
Các nhận xét của
Menningers đã được một số nhà chuyên nghiệp về sức khỏe tâm thần tán thành. Họ
nhìn nhận rằng các bệnh nhân của họ thường xuyên bị xao xuyết về việc mình
không được tha thứ và trở thành nô lệ của mặc cảm tội lỗi. Một khi thừa nhận
tội lỗi của mình và nhận được lòng thương xót cũng như sự tha thứ của Thiên
Chúa, họ thường được giải thoát một cách hết sức lành mạnh về tâm lý.
Thực sự, không nên coi
bí tích hòa giải như một thứ bảng ghi tội và mỗi lần xưng tội xong, là ta xóa
cái bảng ấy sạch tội. Nghĩ như thế là tối thiểu hóa hồng ân mênh mông của Thiên
Chúa là lòng thương xót của Người. Tình yêu dư thừa của Thiên Chúa đối với ta
không phải chuyện ghi nhớ thành tích mà là phục hoạt và tăng cường mối liên hệ.
Lòng thương xót giải thoát linh hồn ta khỏi tội lỗi và việc ghét mình từng
khiến ta không yêu mến và phụng sự Thiên Chúa và người ta. Lòng thương xót này
không những thanh tẩy linh hồn, mà còn làm cho tâm trí ta tràn đầy bình an, đem
lại cho ta sức mạnh để trì chí và lớn lên trong nhân đức.
Mỗi lần nghe linh mục
nói vào cuối việc xưng tội rằng “Xin
Thiên Chúa ban cho con sự tha thứ và
bình an”, tâm hồn ta cảm thấy nhẹ nhõm. Nhưng bất kể phản ứng của bạn có
xúc động hay không, khi lãnh nhận ơn tha tội, cuộc sống bạn thế nào cũng có
thay đổi, thế nào bạn cũng cảm thấy có khả năng tiến lên phía trước. Ơn thánh
nhận được kết hợp ta với Chúa Kitô và cho phép ta cảm nghiệm được sự an ủi của
Người.
2. Sẵn sàng tha thứ
Suy tư thứ hai, tựa là
"Psychological Barriers to
Forgiveness" (Các Rào Cản Tâm Lý Của Sự Tha Thứ), được viết bởi Tiến
Sĩ Paul C. Vitz.
Tại sao tha thứ là việc khó? Ông bảo căm ghét chắc chắn là rào cản chính, nhất là lòng căm ghét giữa người ta với nhau. Trên thế giới ngày nay, rất dễ kiếm ra các điển hình về căm ghét. Chỉ cần vặn truyền hình lên, bạn sẽ thấy sự căm ghét nó sấn sổ và phá hoại đến chừng nào trong các nền văn hóa. Đó mới chỉ là một trong các lý do ta cần phải hiểu cách làm thế nào vượt qua các rào cản và cố gắng để tha thứ.
Ta nên phân biệt giữa
giận dữ và căm ghét. Giận dữ là một phản ứng tự nhiên trước bất cứ cuộc tấn
công, làm thương tổn và đe doạ nào bất kể là có thực hay chỉ do nhận định. Giận
dữ (anger) là một phản ứng vừa có tính xúc cảm tức khắc vừa có tính tác phong
đối với những cuộc tấn công này và rất quen thuộc đối với mọi người. Trái lại,
căm ghét (hatred) không phải là một phản ứng tức khắc, mà tùy thuộc vào việc “vun đắp” giận dữ. Việc “vun đắp” hay nuôi dưỡng này tạo ra các
cơ cấu nhận thức hỗ trợ, các cơ cấu này tạo ra giận dữ mới và xúc cảm tiêu cực
khá lâu sau giận dữ phản xạ lúc ban đầu. Ở đây, Tiến Sĩ Vitz chỉ bàn tới thứ
căm ghét có tính liên bản ngã, chứ không bàn tới các phản ứng đối với bất công
hoặc các cơ cấu xã hội có hại hay sự ác.
Ông bảo điều bất hạnh
là lòng căm ghét này có nhiều hậu quả lâu dài, và những vòng trả thù bất tận
chỉ là một trong các hậu quả này. Đối với các cá nhân, có thể nói lòng căm ghét
“ngâm giấm” người ta, khiến họ tràn
ngập oán giận, chua cay, thậm chí trầm cảm. Và dĩ nhiên, nó ngăn cản người ta
không làm được điều gì tích cực trên đời cả.
Căm ghét có phải là
một chọn lựa hay không? Nơi người lớn, nó thường là thế. Nghĩa là, ta thường
quyết định căm ghét hay không căm ghét. Tuy nhiên, trong quá khứ, ta không chọn
lựa các căm ghét của ta, thí dụ, những căm ghét phát sinh từ các tổn thương
thời thơ ấu. Nhưng khi đã trưởng thành, chẳng chóng thì chầy, ta sẽ chọn một là
duy trì nó hai là từ bỏ nó. Nhờ tâm lý trị liệu và huấn đạo, người ta có thể
đương đầu với các căm ghét của họ. Thí dụ, một nhà trị liệu có thể giúp hiểu rõ
người ta “vun xới” căm ghét ra sao và khả thể để nó ra đi. Vậy điều gì giúp người
ta từ bỏ các căm ghét của mình? Việc đầu tiên là suy nghĩ về chúng. Nhất là suy
nghĩ về những căm ghét khó bỏ. Đây là điểm ta phải chọn lựa. Đây là lúc có thể
chọn việc bỏ nó hay không. Ta có tự do để thực hiện việc chọn lựa này.
Có điều chắc là người
ta thích căm ghét bởi nếu không, nó đâu có được nói nhiều đến thế trong văn
chương thế giới, và trên truyền hình cũng như phim ảnh ngày nay. Trong đoản kỳ,
căm ghét làm ta cảm thấy mình ở thế thượng phong về tinh thần và đem lại cho ta
năng lực và mục đích, nhưng về lâu về dài, nó làm ta tê bại. Xét về nhiều cách,
lòng căm ghét liên ngã là một loại then máy chống đỡ nhằm bảo vệ cái tôi của ta
hay hội chứng tự yêu mình thái quá (narcissism). Một “lợi ích” của việc duy trì căm ghét là lòng tự thương hại (self-pity).
Nhưng lòng tự thương hại phá hoại việc thúc đẩy mình. Lòng căm ghét thường để
lọt ra ngoài và chuốc độc cho các mối liên hệ của ta với những người chung
quanh. Nhiều người khác không muốn từ bỏ căm ghét vì họ có mối liên hệ với
người họ ghét nhưng nếu bỏ không căm ghét, họ sẽ cảm thấy trống vắng ở trên
đời. Ngoài ra, bám lấy căm ghét cũng có thể che chở người ta khỏi bị thương tổn
bởi các mối liên hệ mới, một ích lợi đáng hoài nghi. Lòng căm ghét cũng có thể
làm người ta quên đi các kỷ niệm đau buồn. Một số trong các hậu quả này có tính
tích cực trong đoản kỳ nhưng ai cũng thấy chúng sẽ đem lại những hậu quả tiêu
cực về lâu về dài.
Là Kitô hữu, giả thiết
ta phải biết rằng lòng căm ghét liên ngã là điều sai lầm, và chính Chúa đã minh
nhiên bác bỏ nó. Ta được mời gọi yêu thương kẻ thù, chứ không ghét bỏ họ, dù
việc này rất khó. Một cách tốt để ta khởi sự vượt thắng lòng căm ghét đối với
kẻ thù là cầu nguyện cho họ. Với cầu nguyện, người khác sẽ không hoàn toàn tệ,
còn bạn, xem ra không hoàn toàn tốt nữa. Như thế, cầu nguyện cho kẻ thù giúp
làm họ trở thành có thể tha thứ được.
Tuy nhiên, điều quan
trọng cần ghi nhận là: ta không thể buộc được ai phải tha thứ. Một người nào
khác có thể gợi ý, nhưng cuối cùng, người ta phải tự quyết định cho chính họ, nếu
không, sẽ chỉ là tha thứ giả và rẻ tiền.
Lẽ dĩ nhiên, rất có
thể người ta không được tự do để chấm dứt việc ghét bỏ theo nghĩa có khả năng
dễ dàng từ bỏ các cơ cấu đã được hình thành trong bao nhiêu năm trường, nhưng
quả họ có tự do để bắt đầu thôi không ghét bỏ nữa, dù diễn trình này có khó khăn
và đòi hỏi nhiều cố gắng liên tục. Và, như đã nói, sau việc giảm ghét bỏ sẽ là
khả thể tha thứ thực sự.
Khi một người tha thứ
cho ai, họ tự ý từ bỏ một điều gì đó có giá trị, một món nợ hay một sự công
bình người này mắc họ. Nhưng, tha thứ không miễn thứ người này khỏi những gì họ
đã làm hay bỏ qua hành vi của họ. Ta không thể quên hành động đã làm, nếu ta
thực sự bị thương tổn. Với tha thứ, ký ức ám ảnh về hành động sẽ suy giảm.
Nhưng tha thứ không đòi phải làm hòa với người kia. Robert D. Enright và Richard
P. Fitzgibbons đề xuất câu định nghĩa sau đây về tha thứ: “sau khi xác định một
cách hợp lý rằng mình bị đối xử bất công, người ta tha thứ khi cương quyết từ
bỏ oán hận (resentment) và các phản ứng liên hệ (mà họ có quyền), và cố gắng
đối xử với người làm sai dựa trên nguyên tắc từ tâm (beneficence); nguyên tắc
này có thể bao gồm lòng cảm thương, coi ai cũng có giá trị, lòng đại lượng và
yêu thương tinh thần” (mà người làm sai không có quyền được hưởng) [Enright,
R., & Fitzgibbons, R. (2015). p. 32. Forgiveness therapy: An empirical
guide for resolving anger and restoring hope (Washington, D.C). American
Psychological Association Press].
Nếu ta muốn tha thứ
trong Năm Thương Xót này, ta phải trước nhất triệt hạ các rào cản đối với lòng
tha thứ.
3. Lòng thương xót
phục hồi và chữa lành
Suy nghĩ thứ ba là của
Jessie Tappel, MS, LGPC, nữ giám đốc truyền thông của Viện Khoa Học Tâm Lý. Cô
khởi đầu bằng Mt 5:7: “Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ được thương
xót”. Lòng thương xót là thành phần nền tảng của đời sống Kitô Giáo. Cả
người tội lỗi lẫn người chính trực đều cần lòng thương xót và xin được tha thứ;
không ai được miễn chước cả. Trên thực tế, hiểu được hai việc: tiếp nhận lòng
thương xót và tỏ nó cho người khác hành động ra sao, là điều không dễ dàng.
Tiếp nhận hành vi tha thứ của người khác biến đổi ta ra sao? Tỏ lòng thương xót
cho người khác khiến ta mất mát thế nào? Có khi nào lòng thương xót người có
lợi cho ta không?
Bất chấp tội lệ của
ta, Thiên Chúa vẫn mở cửa thương xót để ta bước vào. Thánh Tôma từng viết rằng “Tỏ lòng thương xót, do đó, là điều thích đáng đối với Thiên Chúa, một cách đặc
biệt, vì nó biểu lộ sự hoàn thiện vô cùng của Người, cũng như sự dư thừa và đại
lượng vô biên của Người”. Là nguồn mọi thương xót, Thiên Chúa cung cấp cho
ta một cảm nghiệm lớn lao đến nỗi ta không còn chọn lựa nào khác hơn là phản
ảnh nó tới các anh chị em của ta. Tất cả chúng ta đều được mời gọi tiếp nhận
lòng thương xót của Người. Như Thánh Faustina từng thuật lại trong cuốn Nhật Ký
của bà: “Con hãy nói với các linh hồn
rằng đừng đặt để trong thẳm sâu trái tim họ các chướng ngại vật cho lòng Thương
Xót của Ta, một Lòng Thương Xót rất muốn hành động trong họ. Lòng Thương Xót của Ta hành động trong mọi trái tim biết
mở cửa đón nhận nó”. Thiên Chúa muốn
tràn đổ trên ta Lòng Thương Xót của Người, nhưng ta phải quyết định chấp nhận
hồng phúc này. Nó không phải là một điều gì tự động, ta cần phải vận dụng trí
khôn và ý chí ta để hiểu, suy nghĩ và chọn lựa hồng phúc thương xót vĩ đại này.
Để tiếp nhận được lòng thương xót, ta phải nhìn nhận lỗi lầm của mình (Sách GL
của GHCG số 1847). Nhìn nhận lỗi lầm của mình là việc khó khăn và thách thức,
vì nó đi ngược lại lòng tự hào và đòi ta phải quên mình.
Thương xót là khi
không bị điều ta đáng bị. Ta không bị trừng phạt như mình đáng bị. Thoạt đầu,
hiểu rõ điều ta đáng bị nhưng rồi không bị tương xứng như thế xem ra khó hiểu.
Ta sống trong một thế giới công bình, nơi, nếu phạm tội, bạn sẽ bị phạt. Nhưng
điều này lại không đúng đối với lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong tính hay
sa ngã và tội lệ của ta, nhiều lần ta cố gắng tìm hiểu sức mạnh tình yêu của
Thiên Chúa trong tương quan với sự yếu đuối của ta, nhưng ta không bao giờ bị
điều mình đáng bị. Hiểu ra điều này, ta cảm thấy một cảm thức hết sức biết ơn,
một thái độ hết sức biến đổi. Đức Gioan Phaolô II, trong Dives in
Misericordia, từng suy tư thế này “khi
hiểu ra điều đó, người vốn là đối
tượng của thương xót không hề cảm thấy bị bẽ mặt chút nào, mà đúng hơn được tìm
thấy lại và ‘được phục hồi giá trị’ trở lại”. Việc tiếp nhận thương xót và
tha thứ phục hồi con người bên trong của ta và biến đổi ta một cách mà chính ta
không có khả năng tự làm cho mình. Nó trở thành một lành lặn, một tự do. Lòng
thương xót dẫn tới sự thật bằng cách giúp ta nhìn thấy bên kia các rào cản giữa
ta và Thiên Chúa và cách Người giúp ta thắng vượt chúng. Lòng thương xót giúp
ta khả năng nhìn thấy tình yêu Thiên Chúa và tình yêu của Người có sức biến đổi
xiết bao.
Trong cuộc sống ta, có
những thời khắc đặc thù trong đó ta xin được tha thứ các lỗi lầm của mình. “Con xin lỗi” là câu nói thường xuyên
lúc ta còn nhỏ, nghĩa là lúc ta được dạy cách thừa nhận lỗi lầm và sửa sai
chúng. Trên bình diện tự nhiên, thông thường ta khá ngập ngừng trong việc tha
thứ. Tha thứ cho người khác thường đòi ta phải hành động, một quyết định, và
đôi khi phải quyết định đi quyết định lại. Nhưng điều quan trọng là biết tha
thứ không phải là gì. Ở đây, điều chủ yếu là tự thừa nhận rằng ta cảm thấy bị
tổn thương và những muốn trả thù. Làm ngơ việc mình bị tổn thương kết cục sẽ
dẫn tới việc bác bỏ hiệu quả thực sự của việc làm sai trái; điều này không lành
mạnh cả về phương diện thiêng liêng lẫn về phương diện tâm lý. Khi gây hại cho
ta và làm điều sai trái, ai đó quả làm ta tổn thương. Cái tổn thương này tạo ra
xúc cảm và đau đớn thực sự. Nhưng điều gì khiến ta có khả năng tha thứ những vi
phạm như thế? Cảm thấy ác cảm và nuôi dưỡng hận thù tạm thời mang lại cho ta
năng lực, nhưng về lâu về dài gây hại lớn cho ta. Nuôi dưỡng oán hận lấy đi
thời gian và cả năng lực nữa, dù ta không biết rõ. Trong diễn trình tha thứ,
tương cảm (empathy) có thể đóng một vai trò. Tương cảm bao hàm một phản ứng đầy
quan tâm và hiểu biết đối với quan điểm hay kinh nghiệm của người khác. Tuy
nhiên, điều ấy không có nghĩa ta phải công nhận hay tưởng thưởng quan điểm hay
tác phong của họ. Nếu phải tha thứ cho ai, điều quan trọng là phải coi người ấy
không hoàn toàn xấu hay hoàn toàn tốt, vì ta biết rằng ta cũng không hoàn toàn
tốt hay hoàn toàn xấu. Đức Gioan Phaolô II cũng đã viết trong Dives in
Misericordia, số 6, rằng “mối liên hệ
của lòng thương xót đặt căn bản trên
cảm nghiệm chung về sự thiện này là con người, trên cảm nghiệm chung về phẩm
giá vốn thích đáng của con người”. Lòng thương xót rất thích đáng với phẩm
giá con người nhân bản. Khi ta có lòng thương xót, ta phản ảnh sự tốt lành của
Thiên Chúa và bổn phận của ta với người lân cận. Lòng thương xót phục hồi giá
trị cho con người sa ngã và đem vinh quang lại cho Chúa Kitô và sứ mệnh cứu rỗi
của Người.
(Con tiếp)
(Fri, 17/04/2015 - Vũ
Văn An) - (Tiếp theo) (2)
II. Thương xót và công lý
Thương xót không phải
mới đây mới có. Dọc dài lịch sử dân Do Thái, không lúc nào họ không cậy nhờ
lòng thương xót của Thiên Chúa. Và từ lúc những con người khốn khổ trên đất
Palestine kêu gào lòng thương xót của Ngôi Lời Nhập Thể, không lúc nào trong
lịch sử Kitô Giáo lại thiếu tiếng kêu xin thương xót, không phải chỉ trên môi
miệng những con người cá thể mà là cả cộng đồng Kitô Hữu thế giới: từ đông sang
tây, lúc dâng hy lễ tạ ơn, lúc nào cộng đồng ấy cũng khởi đầu bằng ba lời thống
thiết: xin Chúa thương xót chúng con!
Thành thử nói tới
thương xót, không một Kitô hữu nào phản đối, bất đồng. Có điều, lòng thương
xót, trong bối cảnh hiện nay, mang theo nhiều âm hưởng khiến nhiều người lo
ngại, và mỗi lần nói tới nó, họ đều thận trọng nhắc đến công lý, ít nhất cũng
bằng số lời họ nói về nó. Thiển nghĩ đó là lập trường của những người như Tiến
sĩ Jeff Mirus, trong một loạt ba bài đóng góp cho Năm Thương Xót.
1.
Ánh sáng thế gian: Luân lý là sinh tử, nhưng lòng thương xót là đầu tiên
Thực vậy, trong một loạt
ba bài gần đây về lòng thương xót, Tiến Sĩ Mirus cố gắng trình bày quan điểm mà
ông cho là “quân bình” khi nói tới
lòng thương xót. Bài đầu tiên tựa là “Light
of the world: Morality vital, but mercy first”.
Tiến Sĩ khởi đầu bằng
cách trích lại nhận định của Đức Phanxicô trong cuộc phỏng vấn của Cha Antonio
Sparado, S.J., chủ bút tạp chí La Civiltá Cattolica (tháng Chín, 2013):
“Ta không thể chỉ nhấn mạnh tới các vấn đề
liên quan tới phá thai, hôn nhân đồng tính và việc sử dụng các phương pháp ngừa
thai. Không thể như thế được. Tôi không nói nhiều tới các vấn đề đó, và tôi đã
bị người ta chỉ trích là vì vậy. Nhưng khi nói tới các vấn đề này, ta phải nói
tới chúng trong ngữ cảnh của chúng. Về việc này, giáo huấn của Giáo Hội rất rõ
ràng và tôi là con cái Giáo Hội, nhưng không cần phải nói về các vấn đề ấy mọi
lúc”.
Tuy cho rằng các vấn
đề trên có bao giờ được đề cập trong các bài giảng đâu mà cho là lúc nào cũng
nói tới chúng, Tiến Sĩ Mirus nhận định: ở đây, Đức Phanxicô muốn lưu ý tới một
vấn đề sâu sắc hơn đó là làm cách nào Giáo Hội truyền thụ được sứ điệp của Chúa
Giêsu cho những người mà cuộc sống chưa được sứ điệp này biến đổi.
Yếu tính của Tin Mừng
Theo Tiến Sĩ Mirus, sứ
điệp nền tảng của Tin Mừng là Thiên Chúa yêu thương ta ngay cả khi ta còn sống
trong tội lỗi, Chúa Giêsu Kitô chết cho ta trước khi ta ăn năn. Chính đáp trả
đầy biết ơn và tín thác của ta vào lòng thương xót này đã giúp ta trở thành các
tạo vật mới, bỏ tội lỗi và cái chết lại phía sau. Tin Mừng là đây: không phải
ta tự nâng mình ra khỏi các cạm bẫy của ta, nhưng Thiên Chúa đã yêu thương đưa
ta vào cõi sống mới. Bởi thế, chỉ cần chấp nhận và lớn lên trong tình yêu này,
các vết thương sâu hoắm nhất của ta cũng sẽ được chữa lành và các khát vọng sâu
xa nhất của ta sẽ thành toàn. Chúa không mong mỏi chi hơn việc làm ta được lành
lặn nhờ lòng thương xót của Người, nhờ Người lôi kéo ta vào tình yêu vô lượng
của Người.
Trong Tân Ước, có cả
hàng tá, thậm chí hàng trăm, lời diễn tả thực tại trên. Thí dụ, đoạn bất hủ
trong thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma chẳng hạn:
“Vậy, một khi đã được nên công chính nhờ đức
tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,
nhờ Người, qua đức tin, chúng ta được vào hưởng ơn ấy, như chúng ta đang được
hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của
Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian
truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng,
thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền
trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa
đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho
chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người
vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Ðức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai
chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện
chăng. Thế mà Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những
người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:1-8; nên xem cả
chương 5).
Chính Chúa nhiều lần
nói đi nói lại những điều như “những
người khỏe mạnh không cần thầy thuốc,
nhưng là những người đau yếu; Tôi đến không để gọi người công chính, mà là kẻ
có tội” (Mc 2:17). Và “nếu các ông
yêu những kẻ yêu các ông, thì nào có công trạng gì? Vì ngay những kẻ tội lỗi
cũng yêu những người yêu chúng” (Lc 6:32). Và “tôi cho các ông hay tội của nàng, dù rất nhiều, vẫn đã được tha, vì
nàng yêu nhiều; nhưng ai được tha ít, là vì yêu ít” (Lc 7:47). Khi những
người đau khổ tin Người sẽ chữa mình, Người thường nói như thế này: “hãy an tâm, các tội của con đã được tha”
(Mt 9:2).
Ta hãy trở lại với
Thánh Phaolô. Trong một bài giảng thời danh, ngài tuyên bố "Vậy thưa anh em, xin biết cho điều này: chính nhờ Ðấng ấy mà ơn
tha tội được loan báo cho anh em; và tất cả những gì anh em đã không được tha
để nên công chính nhờ Luật Môsê, thì nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên công chính” (Cv 13:38-39). Ngài cũng thuật lại
cho Vua Agrippa điều chính Chúa nói với ngài lúc ngài trở lại, giữa khi đang
phạm tội:
“Nhưng ngươi hãy chỗi dậy, đứng thẳng lên. Ta
hiện ra với ngươi là để chọn ngươi làm đầy tớ và làm chứng nhân về những điều
ngươi đã thấy, cũng như những điều Ta sẽ hiện ra mà tỏ cho ngươi biết. Ta sẽ
cứu ngươi thoát khỏi tay dân Dothái và các dân ngoại: Ta sai ngươi đến với
chúng để mở mắt cho chúng, ngõ hầu chúng rời bóng tối mà trở về cùng ánh sáng,
thoát khỏi quyền lực Xatan mà trở về cùng Thiên Chúa; ngõ hầu nhờ tin vào Ta,
chúng được ơn tha tội và được hưởng phần gia tài cùng với các người đã được
thánh hiến" (Cv 26:16-18).
Thánh Phêrô thì viết “Chính Người mang lấy tội lỗi ta trong thân
xác Người trên thập giá, để ta chết cho tội lỗi và sống cho sự công chính. Nhờ
các vết thương của Người, anh em đã được chữa lành” (1Pr 2:24). Và để kết
thúc chủ đề này, Thánh Gioan tuyên xưng “Tình
yêu hệ ở việc này: không phải ta yêu Thiên Chúa nhưng Người yêu ta và sai Con
của Người tới chuộc tội cho ta” (1Ga 4:10).
Thực Tại của Thống Hối
Nhưng dĩ nhiên ta sẽ
bảo: có rất nhiều dịp trong đó Chúa, các tông đồ và các nhà truyền giảng Tin
Mừng nói tới việc thống hối ăn năn, tới nhu cầu phải sống thoát tội lỗi, tới
lời truyền “hãy đi và đừng phạm tội nữa”.
Tác phong luân lý chắc chắn là thành phần rất quan trọng của việc thực thi ý
Chúa và nếu ta đã được Chúa Kitô cứu vớt, thì khó lòng ta có thể hành động như
thể điều này không quan trọng. Chủ điểm, ở đây, vì thế là phải hiểu thứ tự ưu
tiên. Trong truyền thống Kitô Giáo, điều luôn luôn đúng là: lòng thương xót đi
trước sự ăn năn. Lời truyền “hãy đi và
đừng phạm tội nữa” luôn luôn tới
sau lời quả quyết: “cả tôi nữa cũng không
lên án chị” (Ga 8:11).
Chúa Giêsu Kitô không
bao giờ đòi ta phải xứng đáng thì Người mới tha thứ. Ngược lại, chính qua việc
đổ lòng thương xót ra khi ta còn sống trong tội, Người đã đem lại sự biến đổi
nội tâm, giúp ta, với ơn thánh của Người, có khả năng thống hối tội lỗi quá khứ
và chiến thắng cùng các tội lỗi ấy trong tương lai. Không ai có thể thống hối
mà lại không có ơn thánh. Không ai có thể lớn lên trong nhân đức mà không có
thêm ơn thánh. Chúng ta không theo phái Pelagian, tức chủ trương tự sức mình,
không cần Thiên Chúa. Thân phận ta đáng buồn, sơ sác, đói khát, và luôn mong
mỏi điều gì đó có thể trám đầy nỗi trống vắng không tài nào chịu thấu của ta.
Chúa Cha thấy điều đó rất rõ, từ chốn thánh thiện cao vút nhìn thấy kẻ tội lỗi
từ xa, và vội vàng chạy tới ôm lấy ta trong vòng tay yêu thương của Người.
Chính điều đó đập bể
trái tim bằng đá của ta. Cùng với người con trai hoang đàng, mọi mưu tính lợi
hại của ta tan biến thành nước mắt. Và nếu đây là những dòng nước mắt buồn sầu,
thì đồng thời chúng cũng là những dòng nước mắt hân hoan. Thời khắc này chính
là khởi điểm của thần kịch Kitô Giáo. Đây là cách và là cách duy nhất những
người trở lại đã được hạ sinh.
Và giờ đây, có người
sẽ bảo: đúng, dĩ nhiên điều trên đúng. Nhưng mà. Nhưng mà, còn gì nữa không? Dĩ
nhiên là còn. Nhưng nếu quá chú trọng tới chữ “nhưng”, ta liều mình ném yếu tính của Tin Mừng vào bóng tối. Liều
mình ta dập tắt ngọn lửa đang bừng cháy... Trong một vài dòng kế tiếp, ta hãy
xét xem việc này diễn ra thế nào. Ta hãy hỏi xem, dù với những ý định tốt nhất,
ta vẫn thỉnh thoảng làm lu mờ Ánh Sáng Thế Gian ra sao.
2. Chối bỏ tội lỗi là
thiếu lòng thương xót
Như đã nói trên đây,
ta sẽ xét xem nhiều khi, dù có ý hướng tốt, ta vẫn thường làm lu mờ lòng thương
xót của Tin Mừng ra sao. Sự thất bại này thường phát sinh từ tính tự mãn
(complacency) của ta, không chịu thừa nhận một mầu nhiệm quan trọng.
Mầu nhiệm đó là lòng
thương xót và sự công lý của Thiên Chúa thực sự không phải là hai điều khác
nhau. Đó chỉ là hai cách để con người hiểu Thiên Chúa, Đấng hoàn toàn đơn giản
và được nhận diện đích thị là tình yêu. Do đó, Thiên Chúa vừa tha thứ vừa trừng
phạt do cùng một tình yêu. Sách Cách Ngôn khuyên ta; “Này con, chớ khinh thường khi Ðức Chúa sửa dạy con, đừng chán ngán khi
Người khiển trách. Vì Ðức Chúa khiển
trách kẻ Người thương, như người cha xử với con yêu quý” (Cn 3:11-12). Ấy
thế nhưng thánh vịnh gia khẩn khoản: “Lạy
Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con
đã phạm” (Tv 51:1).
Khi tự mãn, ta trở nên
lười lĩnh. Khi lười lĩnh, ta tìm cách đi tắt, xử sự với người khác, và cả với
ta, không cần lưu tâm tới việc kết hợp với Thiên Chúa. Như thế, khi tự mãn, ta
gần như luôn luôn làm những điều Thiên Chúa không làm. Một là ta kết án người
có tội hai là chối bỏ tội lỗi. Ta dám coi việc đầu là thiếu thương xót, việc
sau là thiếu công bình. Nhưng thực ra, chúng vừa thiếu thương xót vừa thiếu
công bình vì cùng thiếu tình yêu.
Chính vì thế, trong
cùng đoạn phỏng vấn ngài của cha Antonio Spadaro, SJ, Đức Phanxicô nói rằng:
“Điều quan trọng hơn cả là lời tuyên xưng đầu
hết: Chúa Giêsu Kitô đã cứu vớt cha. Trong khi vị giải tội, chẳng hạn, luôn có
nguy cơ một là quá khắt khe hai là quá lỏng lẻo. Cả hai thái độ ấy đều không
phải là thương xót vì cả hai đều không thực sự xem xét trách nhiệm của hối
nhân. Người khắt khe rửa tay để mặc trách nhiệm cho giới răn. Người lỏng lẻo rửa
tay bằng cách đơn giản cho hay: ‘đây không phải là tội’ hay một điều gì tương
tự. Trong thừa tác mục vụ , ta phải đồng hành với người ta, và ta phải chữa
lành vết thương của họ” (xem phần tựa là Giáo Hội Như Một Bệnh Viện Dã Chiến).
Tại sao bác bỏ tội lỗi lại phản bội lòng thương xót?
Nhiều vấn đề liên quan
tới mối liên hệ của ta với Thiên Chúa, nhưng điều có tính ưu tiên vừa hợp thời
vừa hợp lý là Thiên Chúa yêu thương chúng ta khi ta còn sống trong tội, và
chính tình yêu này đã đốt lên trong ta cả ước muốn lẫn khả năng yêu Người trở
lại. Ta sẽ thấy một hạnh phúc càng ngày càng lớn hơn với đà chín mùi của mối
liên hệ này. Đây là một diễn trình kết hợp giúp ta nên “trọn hảo như Cha trên trời là Đấng Trọn Hảo” (Mt 5:48).
Điều này thấy rõ ngay
trên bình diện tự nhiên. Ta được dựng nên như những hữu thể qui hướng về việc
hợp nhất với Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao ta cảm thấy trống vắng và bất mãn,
dường như có điều gì đó mất đi, cho tới lúc ta hiểu ra rằng Người yêu thương ta
xiết bao và ta bắt đầu đáp trả tình yêu này. Như Thánh Augustinô từng viết một
cách tuyệt diệu rằng “Lạy Chúa, trái tim
chúng con thao thức không yên cho tới khi chúng an nghỉ trong Chúa”.
Các câu truyện về việc
trở lại thường thuật lại việc người trở lại ý thức được lòng thương xót của
Thiên Chúa, một ý thức có tính quyết định, bất kể là từ từ hay tức khắc. Người
trở lại thường bắt đầu với một cuộc sống không thỏa mãn, trĩu nặng buồn sầu,
giận dữ, trống vắng, thiếu thốn, thất vọng hay vô dụng, nhưng rồi cuộc sống này
đột nhiên thấy Nước Thiên Chúa mở cửa đón chào. Điều này cho thấy người Cha
thương yêu của ta sẽ ban cho ta điều ta cần để ta biến đời mình thành một cuộc
kết hợp với Người. Hiệu quả thứ nhất của việc ta nhận ra lòng thương xót của
Thiên Chúa là lòng hy vọng.
Trên bình diện tự
nhiên, nghĩa là trước khi có Mạc Khải và việc ta hiểu biết ơn thánh, ta đã coi
tác phong của ta như là một thành phần cấu tạo ra nan đề cuộc sống. Một cách
đặc trưng, ta tìm kiếm đủ loại khoái lạc, và càng hưởng khoái lạc, ta càng cảm
thấy mình kém toàn vẹn hơn. Ta cảm thấy ta tan tác, dù chưa hiểu rằng sự toàn
vẹn của con người tùy thuộc việc họ sắp xếp mọi tình yêu của họ theo tương quan
với tình yêu Thiên Chúa.
Tuy nhiên, mọi người
đều phần nào biết đúng và sai, tốt và xấu và cái biết này phát sinh từ chính
bản nhiên họ, điều ta có thể gọi là luật tự nhiên. Ta cảm thấy mình như sống
dưới một sự phán xét nào đó; điều này hàm nghĩa có sự hiện hữu của một quan tòa
và một nhà lập pháp. Dù việc này có bị gột rửa khỏi tim óc ta bằng tẩy não
triệt để của nhà nước toàn trị hay bằng việc ta bác bỏ vì kiêu căng hay đam mê,
mọi con người lành mạnh đều đã cảm nghiệm nó. Mọi con người lành mạnh cũng tiếp
tục cảm nghiệm nó trong cái ta gọi là tiếng lương tâm, dù lương tâm này có bị
đào tạo méo mó ra sao.
Một cách diễn tả khác
về điều trên là: bác bỏ ơn gọi nên hoàn thiện như Thiên Chúa là bác bỏ chính
bản nhiên ta. Đây là lý do tại sao những người bác bỏ thực tại của tội, bằng
cách làm suy giảm hay chối bỏ các giới răn của Thiên Chúa, không thể cho mình
có lòng thương xót được. Đúng hơn, họ cung hiến một lối thoát rẻ tiền bằng cách
biện giải (rationalization). Điều này tạm thời làm trí khôn thoả mãn trong khi
sự kiêu căng và các đam mê của ta tiếp tục làm ta sao lãng các khát vọng sâu xa
nhất của mình. Ta tan tác thêm nhân danh chính tôn giáo!
Lý do rất đơn giản:
thương xót mà không mời gọi người được thương xót bước vào tình bạn chân chính
với Thiên Chúa vô cùng thánh thiện là đồ giả mạo. Không được thừa nhận, đồ giả
mạo này chỉ là một con đường sai lạc khác làm ta đui mù trước quyền lực biến
đổi của tình yêu Thiên Chúa. Còn nếu đã cảm nghiệm đủ quyền lực này rồi, ta sẽ
hiểu ra rằng ta bị nhục mạ bởi những người chuyên giảm thiểu tối đa sự tội, sự
ăn năn và thập giá. Ta đã được tặng viên đá chứ không phải tấm bánh, một thứ
trò cười nhột nhạt đối với khát vọng của trái tim ta.
Cái
sai của lỏng lẻo
Các Kitô hữu dễ sa vào
lỗi lầm trên khi đối xử với người khác dù là với thiện ý, chỉ vì hiểu sai ý
niệm nhân hậu. Tuy nhiên, có biết bao lần sự mập mờ này thực ra chỉ là một biện
giải vì tự mãn do tinh thần thế gian của ta? Dù sao, nói theo Đức Giáo Hoàng
Phanxicô, sự thất bại này phát sinh từ tinh thần lỏng lẻo. Nó là một thất bại
đi theo con người đang tìm kiếm phẩm giá toàn vẹn mà họ được kêu gọi trở nên.
Hiển nhiên, đây là xu hướng “tự do”
hay “duy hiện đại”, một xu hướng đang
được các ảnh hưởng duy tục hiện nay khuếch đại một cách ngoạn mục.
Bác bỏ, không cho một
con người thể hiện trọn vẹn phẩm giá của họ, sự toàn thiện họ được kêu gọi, tư
cách làm con Thiên Chúa mà họ vốn được hứa ban, không thể nào trung thực gọi là
thương xót được. Phải ưu tiên tuyên xưng tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa
trước nhất. Không bao giờ được phản bội bằng cách giả đò rằng ta chẳng hề cần
tới tình yêu và sự tha thứ này. Phương thức này chỉ để ta ở lại trong tội, và
do đó, trong tan tác, trống rỗng và cô đơn. Trọn chủ điểm thương xót là đem ta
ra khỏi chính ta để bước vào trước Thánh Nhan Thiên Chúa.
3. Mổ xẻ việc trở lại
Mỗi người được Chúa
lôi kéo một cách khác. Có thể nói có bao nhiêu mẫu nhân cách thì có bấy nhiêu “động lực khả tín” trong Giáo Hội Công
Giáo. Nhưng như đã nói ở trên, phần lớn các câu truyện trở lại thường chú trọng
tới giây phút lúc họ cảm nhận được tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa
một cách mạnh mẽ. Cuối cùng họ khám phá ra niềm hy vọng ngay giữa các tan tác
của họ.
Điều này đúng cho cả
những người như chúng ta, vốn được dưỡng dục làm người Công Giáo. Đến một lúc
nào đó, Đạo Công Giáo không còn chỉ là một cách sống được chấp nhận nữa, trái
lại đã trở nên một hồng ân diệu kỳ mà ta không hề tự mình kiếm được. Tiến Sĩ
Mirus cho hay: đó chính là kinh nghiệm của ông. Có những lúc ông gần như dám
cho rằng mình đang “làm ơn” cho Chúa
bằng việc trì chí cổ vũ chân lý, vì, ít nhất, ông tin rằng ông không giống như
những người khác (Lc 18:11). Đấy có lẽ là cơn cám dỗ chung của những người vốn
là Công Giáo từ trong nôi, họ cho mình chính thống ngay từ trong bản năng.
Nhưng rồi đến một lúc
nào đó, khi bị dồn ép tứ bề thọ địch, cả bên trong lẫn bên ngoài, ông bắt đầu
nhận ra mình yếu ớt và lệ thuộc Thiên Chúa biết chừng nào. Lượng đức tin, đức
cậy và đức mến ở trong ông được thâm hậu hóa đáng kể nhờ khám phá ra nhu cầu cần
thương xót nơi ông. Trước đây, ông chưa bao giờ nghĩ tới nhu cầu ấy, quả là một
thiếu sót lớn.
Điều này xem ra như
mới hôm qua, mà thực đã xẩy ra cả 30 năm nay. Khi hiểu ra cảnh khốn khổ nếu
không có Chúa của mình, bạn không quên được điều này. Nhưng trước khi hiểu ra
việc đó, ta vẫn thường có khuynh hướng muốn giúp người khác bằng cách đưa mình
ra làm khuôn mẫu, thay vì phục vụ họ như những người được Chúa Kito sai đến
(2Cor 5:20).
Ông cho rằng chứng tá
của Nữ Tu Miriam James Heiland, SOLT, quả rất giá trị với cuốn sách mới của bà
tựa là Loved as I Am (Được Yêu Thương Như Tôi) do nhà Ave
Maria xuất bản. Nếu đọc thêm tựa đề phụ của cuốn sách “Một Lời Mời Trở Lại, Được Chữa Lành và Tự Do Nhờ Chúa Giêsu”, ta sẽ hiểu rõ việc trở lại
vốn được cảm nhận ra sao: như một chữa lành, tự do và, dĩ nhiên, biết ơn.
Choáng váng biết mình
là con nuôi, ngay từ nhỏ đã bị lạm dụng tình dục, không thoả mãn với các thành
tựu thể thao, tiệc tùng và đàn ông cũng như rượu chè, Nữ Tu Miriam tha thiết đi
tìm một mục tiêu thỏa đáng cho đời mình. Bà quả không giống như phần đông tuổi
trẻ của nền văn hóa ngày nay. Bà hết sức cần được tình cha dẫn vào toàn vẹn,
một diễn trình vẫn đang tiếp diễn qua sự giúp đỡ của Thiên Chúa cũng như của
con người cả sau khi bà đã đáp lại tiếng Chúa Kitô và ơn gọi sống đời tận hiến
của mình.
Từ năm 1998, Nữ Tu
Miriam đã là một nhà truyền giáo của Tu Hội Đức Đức Bà Chúa Ba Ngôi Rất Thánh.
Cuốn sách của bà ngắn thôi, vào khoảng 100 trang, gồm cả các câu hỏi để suy
nghĩ sau khi mô tả từng giai đoạn trong hành trình trở lại của bà, một hành
trình, xét cho cùng, tùy thuộc việc cảm nghiệm được lòng thương xót của Chúa
giữa bao tan tác của cuộc đời.
(Sun, 19/04/2015 - Vũ Văn An) (3)
III.
Giáo Hội có thương xót như Chúa Kitô thương xót không?
Vừa
được bầu làm Giáo Hoàng, Đức Phanxicô đã cho mọi người thấy chiều hướng thương
xót của triều đại ngài khi vẫn giữ huy hiệu giám mục: Miserando atque
Eligendo (thương xót mà chọn lựa). Và Chúa Nhật sau đó, trong bài diễn văn
đầu tiên với tín hữu, ngài nói tới việc tha thứ cho người đàn bà ngoại tình. Và
với ngài, Đức Hồng Y Walter Kasper là thần học gia tuyệt vời của lòng thương
xót, sau khi đọc tác phẩm của vị Hồng Y này tựa là "Mercy, The Essence of
the Gospel and The Key to Christian Life” (Lòng Thương Xót, Yếu Tính của Tin
Mừng và là Chìa Khoá mở ra Sự Sống Mới).
Ở
đây, chúng tôi không có tham vọng trình bầy nội dung cuốn sách trên, chỉ dựa
vào phát biểu của vị Hồng Y này về lòng thương xót ngay trước ngày khai mạc
Thượng Hội Đồng Đặc Biệt về Gia Đình năm 2014.
Đức Hồng Y
Kasper đặt câu hỏi: lòng thương xót có nghĩa gì đối với đời sống và sứ mệnh của
Giáo Hội? Theo ngài, giới điều thương xót không chỉ áp dụng cho các Kitô hữu cá
nhân mà còn cho cả Giáo Hội như một toàn bộ nữa. Vì nếu Thiên Chúa luôn luôn
thương xót, thì tại sao Giáo Hội lại không thương xót? Hay, tại sao xem ra Giáo
Hội không thương xót như Thiên Chúa thương xót? Câu hỏi này cho thấy có sự
thiếu thoải mái nơi khá nhiều Kitô hữu.
Và Đức
Hồng Y cho hay các Kitô hữu trên rất đúng. Bởi vì tại Công Đồng Vatican II,
Giáo Hội vốn tự định nghĩa mình như một bí tích, dấu chỉ và dụng cụ phổ quát
của cứu rỗi nhờ Chúa Kitô. Nếu Giáo Hội là bí tích chỉ tình yêu Thiên Chúa
trong Chúa Kitô, thì Giáo Hội cũng là bí tích chỉ lòng thương xót của Người.
Bởi thế, giới truyền buộc Giáo Hội phải có lòng thương xót được đặt cơ sở trên
chính bản sắc của Giáo Hội như Nhiệm Thể Chúa Kitô. Giáo Hội không phải là loại
cơ quan xã hội hay bác ái; trong tư cách nhiệm thể Chúa Kitô, Giáo Hội là bí
tích chỉ sự hiện diện liên tục đầy hiệu quả của Chúa Kitô trong thế gian. Giáo
Hội là bí tích chỉ lòng thương xót trong tư cách “Chúa Kitô toàn diện”, nghĩa
là Chúa Kitô nơi đầu và các chi thể. Như thế, Giáo Hội gặp gỡ Chúa Kitô trong
chính các chi thể của mình và nơi những người đang cần sự giúp đỡ.
Tuy
nhiên, vẫn còn khía cạnh thứ hai. Giáo Hội không những là tác nhân của lòng
Chúa thương xót; mà còn là đối tượng của lòng thương xót ấy nữa. Là nhiệm thể
Chúa Kitô, Giáo Hội được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc. Nhưng Giáo Hội bao gồm các
tín hũu trong lòng mình và do đó phải không ngừng được thanh tẩy để có thể đứng
vững một cách trong sạch và thánh thiện (Eph 5:23). Thành thử, Giáo Hội phải tự
hỏi mình một cách phê phán và không ngừng xem mình có thực sự sống đúng với bản
sắc của mình, đúng với ơn gọi của mình hay không. Ngoài ra, như chính Chúa
Giêsu Kitô từng làm, cả ta nữa cũng giả thiết phải đương đầu với các lầm lẫn và
sai phạm của Giáo Hội, không theo cách tự coi mình là chính trực mà theo lối
thương xót. Tuy nhiên, ta phải rõ ràng về điều này: một Giáo Hội không có bác
ái và thương xót không còn phải là Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô nữa.
Cho
nên, sứ điệp thương xót có những hậu quả rất xa rộng đối với giáo huấn, sinh
hoạt và sứ mệnh Giáo Hội. Lời trách móc tệ hại nhất chống lại Giáo Hội là đã
không thực hành những gì mình truyền dạy người khác. Thực vậy, nhiều người cảm
thấy Giáo Hội khắt khe, thiếu lòng thương xót. Chính vì thế Đức Giáo Hoàng
Gioan XXIII, khi khai mạc Công Đồng Vatican II, đã nói rằng trước hết, Giáo Hội
phải sử dụng liều thuốc thương xót.
Việc
trên có thể diễn ra 3 cách: Giáo Hội phải công bố lòng thương xót của Thiên
Chúa; Giáo Hội phải cụ thể cung cấp cho người ta lòng thương xót của Thiên Chúa
dưới hình thức bí tích hòa giải; và Giáo Hội phải để lòng thương xót của Thiên
Chúa xuất hiện và được thể hiện trong toàn bộ đời sống, các cơ cấu cụ thể và cả
trong các luật lệ của mình.
Lòng
thương xót và người nghèo
Có
nhiều điều nên nói về bí tích thương xót, những điều vốn bị đánh giá thấp trong
mấy thập niên vừa qua. Nhưng ở đây, Đức HY Kasper chỉ đề cập tới một khía cạnh
rất quan trọng đối với Đức Phanxicô. Giáo Hội như chứng tá của lòng thương xót
đóng vai chủ chốt trong chương trình của ngài muốn có một Giáo Hội nghèo cho
người nghèo.
Chương
trình trên không mới lạ gì. Nó chính là chương trình của Chúa Giêsu Kitô. Người
tới để rao giảng Tin Mừng cho người nghèo (Lc 4:18). Người không chỉ giảng dạy;
Người, vốn giầu có, nay trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giầu có (2Cor
8:9). Công Đồng Vatican II bàn tới sứ điệp này trong một chương của “Hiến Chế
Tín Lý về Giáo Hội”, tuy bị lãng quên sau thời Công Đồng, nhưng đã trở thành
quan trọng đối với nền thần học của Nam Bán Cầu. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng
Phanxicô đem nó ra cho cả Giáo Hội hoàn cầu cùng suy nghĩ. Ta hay quên rằng hai
phần ba anh chị em Kitô Giáo và Công Giáo của ta hiện sống ở Nam Bán Cầu, ấy
vậy nhưng ta lại không chú trọng gì tới các nhu cầu, các vấn đề và các chủ
trương của họ. Họ nghèo về vật chất, nhưng lại là những Giáo Hội rất sống động
và sinh động mà ta cần lắng nghe. Họ tượng trưng cho tương lai Giáo Hội.
Đối với
Đức Phanxicô, trở thành một Giáo Hội nghèo cho người nghèo, chủ yếu, không phải
là một chương trình xã hội mà là một vấn đề Kitô học. Các anh chị em nghèo của
ta là thành phần của nhiệm thể Chúa Kitô. Như Đức Phanxicô vốn nhấn mạnh, trong
các thương tích của người nghèo và người bệnh, ta đụng tới các thương tích của
Chúa Kitô nghèo. Chính Người nói với ta: điều các con làm cho họ, là các con
làm cho Ta” (Mt 25). Đây là trải nghiệm của Thánh Phanxicô Thành Assidi.
Vị thánh
này, lúc bắt đầu con đường hồi tâm của ngài, đã ôm hôn một người cùi và có cảm
giác là ôm hôn chính Chúa Kitô. Mẹ Terêxa cũng thuật lại cùng một trải nghiệm
như thế khi bà choàng tay ôm một người đàn ông tả tơi đang hấp hối tại một
trung tâm của Mẹ ở Calcutta.
Từ
các vị thánh trên, ta học hỏi được nhiều về tính mẫn cảm và lòng nhân hậu của
Thiên Chúa, một tính mẫn cảm và nhân hậu ta nên mô phỏng đối với các người lân
cận của ta. Bởi thế, Đức Phanxicô đã bén rễ rất sâu vào lịch sử Kitô Giáo. Quà
phúc ngài dành cho Giáo Hội là biến một truyền thống cổ xưa thành một sứ điệp
khẩn trương dành cho chúng ta ngày nay. Lòng thương xót là vấn đề chính của
triều đại ngài và là một thách đố vĩ đại, nhất là đối với các Giáo Hội giầu có
ở Bắc Bán Cầu.
Lòng
thương xót và giáo luật
Nhiều
người đặt câu hỏi: Điều trên có nghĩa gì đối với chính Giáo Hội và tác phong
của Giáo Hội không những đối với những người nghèo theo nghĩa vật chất mà đối
với cả những người ở bên trong Giáo Hội tự cảm thấy mình bị lãng quên, bị đẩy
qua một bên, bị cho ra rìa và bị tuyệt thông, nếu không theo đúng nghĩa giáo
luật thì ít nhất cũng theo nghĩa thực tế, vì những người này không được phép
tham dự bàn tiệc của Chúa? Người ta thường hay thắc mắc: còn về những người ly
dị và tái hôn thì sao?
Trước
nhất, theo Đức HY Kasper, chữ lòng thương xót rất hay bị hiểu lầm và sử dụng sai.
Việc này xẩy ra mỗi khi ta lẫn lộn lòng thương xót với nuông chiều yếu đuối hay
với thứ thương xót giả hiệu, vì yếu đuối, cứ để mặc người ta làm theo ý họ.
Nguy cơ là biến ơn thánh qúy giá của Thiên Chúa, một ơn thánh được “mua” hay
“có được” nhờ chính máu của Người trên thập giá, thành thứ ơn phúc rẻ tiền, và
biến ơn thánh thành một món hàng rẻ tiền bán ở tầng hầm. Đó là điều Dietrich
Bonhoeffer muốn diễn tả khi ông viết rằng “ơn thánh rẻ tiền có nghĩa là công
chính hóa tội lỗi chứ không công chính hóa người có tội… Ơn thánh rẻ tiền là
giảng dậy sự tha thứ mà không đòi sự ăn năn, giảng dậy phép rửa mà không cần kỷ
luật của Giáo Hội, giảng dậy Rước Lễ mà không cần xưng tội, giảng dậy sự tha
tội mà không cần cá nhân phải xưng tội”.
Bởi
thế, theo Đức HY Kasper, ta cần tìm hiểu lại ý nghĩa của kỷ luật Giáo Hội. Chữ
đầu hết trong Tân Ước chỉ Giáo Hội, tức chữ Ecclesia, ngay từ đầu, đã
chứa nhiều yếu tố luật lệ. Ý tưởng cho rằng Giáo Hội nguyên thủy của yêu thương
sau này đã trở thành Giáo Hội của luật lệ là một ý tưởng không thể nào chứng
minh được. Theo Tin Mừng Thánh Mátthêu, Chúa Giêsu ban quyền chìa khóa cho
Thánh Phêrô cũng như ban cho ngài và cho mọi tông đồ quyền buộc và tha, nghĩa
là quyền được tống xuất các cá nhân ra khỏi cộng đồng và tái nhận lại họ. Và
Thánh Mátthêu từng ghi lại các qui luật rõ ràng để thi hành quyền này (Mt
16:19; 18:18).
Thành
thử, việc không tuân hành kỷ luật Giáo Hội không thể nại tới Chúa Giêsu và Tân
Ước để ủng hộ được. Nhưng vì kỷ luật Giáo Hội phải phù hợp với ý nghĩa Tin
Mừng, nên nó cần được giải thích và áp dụng theo chiều hướng và tinh thần của
Tin Mừng. Chính vì lý do này, Thánh Phaolô nói rõ: hình phạt tống xuất nhằm
buộc người tội lỗi phải suy nghĩ về tác phong của mình mà ăn năn hối lỗi. Nếu
người tội lỗi hối hận về hành động của họ và ăn năn, thì cộng đồng phải để lòng
nhân hậu thắng thế một lần nữa (2Cor 2:5-11). Hình phạt là phương thế cuối cùng
và chỉ có tính tạm thời. Nó là phương thế quyết liệt và cuối cùng được lòng
thương xót sử dụng.
Hiểu
kỷ luật Giáo Hội như liều thuốc đắng đót nhưng cần thiết của lòng thương xót
như trên là cái hiểu phù hợp với truyền thống vốn coi Chúa Giêsu Kitô như thầy
thuốc, người chữa lành và cứu vớt; một truyền thống trong đó, vị mục tử, nhất
là vị giải tội, được hiểu không phải chỉ là quan tòa, mà trước nhất như một
thầy thuốc của linh hồn. Lối hiểu có tính điều trị này về luật lệ và kỷ luật
Giáo Hội dẫn ta tới vấn đề nền tảng là phải giải thích và giải nghĩa lề luật
của Giáo Hội ra sao. Đây là một lãnh vực rất rộng mà theo Đức HY Kasper, ta
không thể bàn thấu đáo ở đây, nhưng chỉ bàn tới khía cạnh tương quan của luật
Giáo Hội với lòng thương xót mà thôi.
Lề
luật và tinh thần
Theo Đức
HY Kasper, giáo luật không chống lại Tin Mừng, nhưng Tin Mừng chống lại lối
hiểu có tính duy pháp về giáo luật. Phải giải thích và áp dụng giáo luật dưới
ánh sáng lòng thương xót vì lòng thương xót mở mắt để ta thấy tình thế cụ thể
của người khác. Lòng thương xót cho thấy cá nhân không phải chỉ một trường hợp
ta có thể sắp (subsume) vào một qui luật chung. Trái lại, đối với nền nhân học
Kitô Giáo, điều chủ yếu là: trước mặt Thiên Chúa, chúng ta không phải là một
“số nhiều”; mỗi người và mỗi tình huống đều có tính độc đáo. Do đó, ta phải tìm
ra các giải pháp công chính và công bình cùng một lúc. Nếu không chịu tìm như
thế, thì như người Rôma vốn nói, summa ius (công lý cao nhất) sẽ trở
thành summa iniuria (bất công cao nhất).
Các suy tư
trên có nghĩa gì đối với vấn đề các người Công Giáo ly dị và tái hôn là việc
đang được đem ra thảo luận, chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng Giám Mục sắp tới (năm
2014). Đức HY Kasper cho hay: ngài không có câu trả lời cuối cùng cho câu hỏi
này. Trách nhiệm của Thượng Hội Đồng cùng với Đức Giáo Hoàng là phải quyết định
vấn đề này. Trong mật nghị hội các Hồng Y đầu năm 2014, theo chỉ thị của Đức
Phanxicô, ngài chỉ đề xuất một “số suy tư khiêm tốn” về vấn đề khẩn trương này
mà thôi.
Không nhà
thần học nào, kể cả Đức Giáo Hoàng, có thể thay đổi tín lý bất khả tiêu của một
hôn nhân bí tích. Trái lại, tất cả chúng ta đều có lý do phải giúp đỡ và nâng
đỡ để người ta trung thành với cuộc hôn nhân của họ vì lợi ích của chính họ và
vì lợi ích của con cái họ. Đúng là tín lý không thể bị thay đổi và sẽ không bị
thay đổi. Nhưng tín lý phải được áp dụng một cách thận trọng (prudence), một
cách công chính và công bình theo các tình huống cụ thể và thường phức tạp. Bởi
vì các tình huống này rất khác nhau. Không hề có một trường hợp ly dị và tái
hôn tiêu biểu (typical); do đó, không thể có một giải pháp tiêu chuẩn chung cho
mọi tình huống. Cần phải biện phân, và biện phân, thận trọng và khôn ngoan là
các nhân đức chính của một giám mục mục tử. Ta không luôn thực hiện được điều
tốt nhất, nhưng ta nên luôn luôn làm hết sức ta.
Bởi vậy,
theo Đức HY Kasper, câu hỏi là: nếu một người, sau khi ly dị, bước vào một cuộc
hôn nhân thứ hai theo dân luật nhưng rồi thống hối sự thất bại không chu toàn
lời hứa của mình trước mặt Thiên Chúa, người phối ngẫu và Giáo Hội trong cuộc
hôn nhân thứ nhất, và chu toàn hết sức các bổn phận mới của mình và làm những
gì có thể làm được cho việc giáo dục con cái trong đức tin Kitô Giáo và có ước
muốn nghiêm chỉnh được chịu các bí tích, mà ông cần để có sức mạnh trong tình
huống khó khăn của mình, liệu ta có nên từ chối tha tội và tha thứ cho ông ta
không sau một thời gian tái định hướng và ổn định? Trong Kinh Tin Kính, ta
tuyên xưng: “tôi tin phép tha tội”. Nếu Thiên Chúa chịu ban cơ hội mới, tương
lai mới cho mọi người biết ăn năn thống hối và làm những gì có thể trong tình
huống của họ, tại sao Giáo Hội, vốn là bí tích của lòng Chúa thương xót, lại
không chịu ban?
Đức
HY Kasper cho rằng chủ điểm ở đây là việc giải thích thoả đáng đối với việc áp
dụng. Thánh Tôma Aquinô, theo gương Aristốt, dạy ta phải áp dụng trí hiểu thực
tiễn (practical intellect, khác với trí hiểu lý thuyết hay suy lý, theoretical
or speculative intellect) vào một tình huống cụ thể. Nói cách khác, phải áp
dụng nhân đức thận trọng: tức khôn ngoan áp dụng nguyên tắc phổ quát vào một
tình huống cá biệt và đặc thù. Đây là phương thức từng được một số giáo phụ đưa
ra, nhất là Thánh Basilêô Thành Xêdarêa: sử dụng nguyên tắc oikonomia của Chính
Thống Giáo, hay nguyên tắc epikea của truyền thống La Tinh. Đầu thời cận đại,
Thánh Alphôngsô Đệ Liguori đề xuất phương thức này trong hệ thống cái nhiên
thuyết (probabilism) của ngài. Như thế, nếu đi theo chiều hướng này, Thượng Hội
Đồng sẽ nằm trong truyền thống tốt nhất của Giáo Hội. Lẽ dĩ nhiên, các suy tư
này không mở ra một phương thức tổng quát áp dụng cho mọi tình huống; chỉ có
thể áp dụng cho một số nhỏ mà thôi; nhưng có thể trở thành một con đường cho
những ai hết sức quan tâm và sẵn sàng đi theo lối hồi tâm.
Con đường
trên vượt lên trên các cực đoan của chủ nghĩa khắt khe, vốn không thể là đường
đi của người Kitô hữu trung bình, và cả chủ nghĩa lỏng lẻo nữa, vốn không tương
hợp với lời kêu gọi nên thánh của Chúa Kitô. Tìm ra con đường vượt lên trên các
cực đoan vốn luôn là phương cách của Giáo Hội, phương cách biện phân, cẩn trọng
và khôn ngoan, phương cách của lòng thương xót cụ thể.
Lòng
thương xót từ bên dưới
Theo Đức
HY Kasper, cách nhìn thông thường trong thần học là bắt đầu từ bên trên. Ta
biết một tín lý hay một qui luật và ta bắt đầu từ đó để áp dụng nó vào thực tại
cụ thể, một thực tại thường là phức tạp và đa diện. Lòng thương xót dẫn ta tới
một cách nhìn khác, không bắt đầu từ bên trên mà bắt đầu từ bên dưới, xem sét
một tình huống cụ thể để rồi áp dụng vào đó một luật lệ hay một qui định. Nhưng
đây không phải là đạo đức học hoàn cảnh, vì qui luật có giá trị trong chính nó
và không do hoàn cảnh tạo ra. Đây chính là phương pháp của Thánh Inhaxiô Thành
Loyola trong các bài linh thao của ngài; đây là lối Đức GH Phanxicô, một tu sĩ
Dòng Tên thuần thành, thực hành nó. Ngài khởi đi từ một tình huống, một hoàn
cảnh, rồi sử dụng sự biện phân các thần khí.
Đức HY
Kasper quả quyết rằng: Chúa Giêsu cũng chỉ cho ta cùng một phương thức ấy. Khi
được hỏi: “ai là người lân cận của tôi?”, Người không đưa ra một câu trả lời
trừu tượng. Người kể một câu truyện cụ thể, câu truyện về người Samaritanô nhân
hậu, tốt bụng (Lc 10:30-37): “có một người, trên đường từ Giêrusalem xuống
Giêricô, rơi vào tay bọn cướp”. Một linh mục đi qua con đường ấy, thấy ông ta,
nhưng bước sang phía khác tiếp tục đi. Cũng thế, một thầy Lêvi thấy ông ta
nhưng theo phía kia tiếp tục bước. Nhưng khi một người Samaria đi qua, thấy
người này, bèn động lòng thương. Ông cúi xuống, rửa và băng bó vết thương cho
ông ta. Kể xong, Chúa Giêsu hỏi vị thầy Do Thái Giáo: “Người nào trong ba người
này biến mình thành hàng xóm của người bị rơi vào tay bọn cướp?”. Câu trả lời
rất đúng: “người thương xót ông ta”. Và Chúa Giêsu bảo: “thầy hãy đi và làm như
thế”.
Thiên Chúa
xử với ta y hệt như thế. Người cúi xuống để nâng ta dậy; để an ủi ta và chữa
lành các vết thương của ta; và để ban cho ta cơ hội mới, thông ban cho ta sự
sống mới, hy vọng mới. Và ai là người chính trực đến nỗi dám tự nghĩ là mình
không cần tới lòng thương xót như thế? Lòng thương xót chính là tên của Thiên
Chúa chúng ta. Lòng thương xót là lời mời gọi ta trở nên một con người nhân
bản, cùng cảm nhận với những con người nhân bản khác đang đau khổ và thấy mình
thiếu thốn. Lòng thương xót là lời mời gọi ta trở nên một Kitô hữu thực sự, dám
theo gương Chúa Kitô và gặp gỡ Chúa Kitô trong các anh chị em đau khổ của mình.
Lòng thương xót là yếu tính của Tin Mừng và là chìa khóa mở ra cuộc sống Kitô
Giáo. Lòng thương xót là tin mừng nhất và đẹp nhất ta từng được kể và ta nên
đem tới cho thế giới. Thiên Chúa, vì lòng thương xót, luôn ban cho ta cơ hội mới,
tương lai mới thế nào thì lòng thương xót của ta cũng đem lại tương lai cho
người khác, và cho thế giới, một thế giới đang hết sức cần tới nó như thế.
Phải
nói, những dòng trên là những dòng tuyệt vời nói về lòng thương xót. Khó có
ngòi bút nào nói hay hơn. Chỉ có điều, xem ra Đức Hồng Y chỉ biết đề cao lòng
thương xót đến làm lu mờ các yếu tố khác, nhất là đức công bình của Thiên Chúa.
Ngài có nói tới nó, nhưng không nói tới nó cách ngọn ngành. Thí dụ lòng ăn năn
chẳng hạn, ngài bất cập rõ rệt khi nói tới nó. Ăn năn đòi người ta phải “đừng
phạm tội nữa”. Đó chính là lời của Chúa Giêsu thương xót.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét