Những người mẹ tuyệt vời trong Kinh Thánh
(Sun,
26/04/2015 - Trầm Thiên Thu - thanhlinh,net)
Đức Maria
Khi thấy thiếu rượu, thân
mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ
hết rượu rồi”. Đức Giêsu đáp: “Thưa
Mẹ, chuyện đó can gì đến Mẹ và Con? Giờ của Con chưa đến”. Thân mẫu Người
nói với gia nhân: “Người bảo
gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga
2:3-5).
Đức Maria là Mẹ của Đấng
cứu độ trần gian. Áp lực nhiều không? Chắc hẳn rất khó để Chúa Giêsu có thể “làm
việc của Chúa Cha”. Đức Mẹ biết lý do Chúa Giêsu được sai tới trần gian nên
phải chăm sóc Ngài rất cực khổ. Đức Mẹ hy sinh mọi ý riêng vì Thiên Chúa.
Bà Tổ Ê-va
“A-đam đặt tên cho vợ là
Ê-va, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3:20).
Bà Ê-va biết nỗi đau mất
con sau khi Ca-in giết A-ben. Bà còn đức con trai khác là Sét. Qua Sét mà tổ
tiên của Đức Giêsu Kitô được lưu truyền.
Bà Han-na
Tâm hồn cay đắng, bà cầu
nguyện với Đức Chúa và khóc nức nở. Bà khấn hứa: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, nếu
Ngài đoái nhìn đến nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến con và
không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con sẽ
dâng nó cho Đức Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu nó” (1 Sm 1:10-11).
Thiên Chúa đã đáp lại lời
cầu của bà Han-na và cho bà thụ thai Sa-mu-en. Bà hoàn tất lời thề với Thiên
Chúa và Sa-mu-en được đưa tới Đền Thờ giao cho tư tế. Nhờ đức vâng lời của bà,
Sa-mu-en trở nên ngôn sứ nổi tiếng nhất trong lịch sử dân Ít-ra-en.
Bà Đơ-vô-ra
Bà Đơ-vô-ra, một nữ ngôn
sứ, vợ ông Láp-pi-đốt, thời ấy làm thủ lãnh xét xử Ít-ra-en. Bà ngồi xử dưới
Cây Chà Là Đơ-vô-ra, giữa Ra-ma và Bết Ên, trên núi Ép-ra-im, và con cái
Ít-ra-en đến với bà để bà xét xử cho. Bà sai người mời ông Ba-rắc, con ông
A-vi-nô-am, từ Ke-đét thuộc Náp-ta-li tới, và nói với ông: “Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en,
lại không nói với ông thế này sao? Hãy đi chiêu mộ trong vùng núi Ta-bo lấy
mười ngàn người trong số con cái Náp-ta-li và trong số con cái Dơ-vu-lun để đi
với ngươi. Ta sẽ dụ tướng Xi-xơ-ra, chỉ huy quân đội vua Gia-vin tiến về phía
ngươi, bên suối Ki-sôn, cùng với chiến xa và quân binh của nó, và Ta sẽ trao nó
vào tay ngươi”. Ông Ba-rắc nói với bà: “Nếu
bà đi với tôi thì tôi đi, nếu bà không đi với tôi thì tôi không đi”. Bà trả
lời: “Chắc chắn tôi sẽ đi với
ông. Có điều là trong chuyến đi này, vinh dự không thuộc về ông, vì Đức Chúa sẽ
trao Xi-xơ-ra vào tay một người đàn bà”. Bà Đơ-vô-ra chỗi dậy đi với ông
Ba-rắc đến Ke-đét. Ông Ba-rắc triệu tập Dơ-vu-lun và Náp-ta-li tiến về Ke-đét.
Mười ngàn người theo chân ông, cả bà Đơ-vô-ra cũng đi với ông (Tl 4:4-10).
Bà Đơ-vô-ra là người mẹ,
là ngôn sứ, là thủ lãnh và sống vì Chúa dù tội lỗi ảnh hưởng đất Ít-ra-en!
Bà Sa-ra
“Nhờ đức tin, cả bà Sa-ra
vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã
cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Vì thế, do một người duy
nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát
biển, không tài nào đếm được” (Dt 11:11-12).
Bà Sa-ra là vợ ông
Áp-ra-ham và không có con, khi sinh I-sa-ác thì bà đã ngoài 90 tuổi. Bà Sa-ra
trở thành “mẫu tổ” đầu tiên của dân Do Thái.
Bà Rê-bê-ca
Đây là gia đình ông
I-sa-ác, con ông Áp-ra-ham. Ông Áp-ra-ham sinh ra ông I-sa-ác. Ông I-sa-ác được
bốn mươi tuổi, khi ông lấy bà Rê-bê-ca làm vợ; bà này là con ông Bơ-thu-ên,
người A-ram ở Pát-đan A-ram, và là em ông La-ban, người A-ram. Ông I-sa-ác khẩn
cầu Đức Chúa cho vợ ông, vì bà hiếm hoi. Đức Chúa nhậm lời ông, và bà Rê-bê-ca
vợ ông có thai. Các đứa con đụng nhau trong lòng bà, nên bà kêu lên: “Nếu vậy thì tại sao tôi thế này?”.
Bà thỉnh ý Đức Chúa. Đức Chúa phán với bà: “Có
hai dân tộc trong lòng ngươi, hai dân từ dạ ngươi sinh ra và sẽ chia rẽ nhau.
Dân này sẽ mạnh hơn dân kia, đứa lớn sẽ làm tôi đứa bé”. Khi đến ngày sinh
nở thì quả là bà đã mang hai đứa con trong lòng. Đứa ra trước đỏ hoe, toàn thân
như một chiếc áo choàng bằng lông: người ta đặt tên cho nó là Ê-sau. Sau đó,
đứa em ra, tay nắm gót chân của Ê-sau: người ta đặt tên cho nó là Gia-cóp. Ông
I-sa-ác được sáu mươi tuổi khi chúng sinh ra.
Hai đứa trẻ lớn lên.
Ê-sau là người thạo nghề săn bắn, chuyên rong ruổi ngoài đồng; còn Gia-cóp thì
trầm tĩnh, chỉ sống ở lều. Ông I-sa-ác thương Ê-sau vì ông thích ăn thịt rừng,
còn bà Rê-bê-ca thì thương Gia-cóp. Lần kia, Gia-cóp đang nấu cháo, Ê-sau từ
ngoài đồng về, mệt lả. Ê-sau nói với Gia-cóp: “Cho
anh ăn món đo đỏ kia với, vì anh đang mệt lả”. Vì thế người ta đặt tên cho
nó là Ê-đôm. Gia-cóp nói: “Anh
hãy bán quyền trưởng nam của anh cho em trước đã!”. Ê-sau nói: “Anh đang sắp chết thì quyền trưởng
nam có ích gì cho anh?”. Gia-cóp nói: “Vậy
anh thề ngay với em đi”. Ê-sau liền thề và bán quyền trưởng nam của mình
cho Gia-cóp. Bấy giờ Gia-cóp cho Ê-sau bánh và cháo đậu. Ê-sau ăn uống, rồi
đứng dậy đi. Ê-sau đã coi thường quyền trưởng nam (St 25:19-34).
Bà Rê-bê-ca là mẹ của
Gia-cóp và Ê-sau, là vợ của I-sa-ác. Khi con cái lớn khôn, bà chứng kiến chúng
tranh chấp. Cuộc xung đột này trở thành mối chia rẽ các thế hệ. Bà Rê-bê-ca có
tiếng là người làm việc cần cù và hiếu khách vì bà tin rằng họ được Thiên Chúa
sai tới.
Bà Rút
Bà Na-o-mi nói: “Kìa chị dâu con trở về với dân tộc
của nó và các thần của nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về đi!”.
Rút đáp: “Xin mẹ đừng ép con
bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở
đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con” (Rút 1:15-16).
Khi chồng mất, bà Rút
chăm sóc mẹ chồng là bà Na-o-mi mà không hề than phiền. Thiên Chúa biết lòng
chung thủy của bà, Ngài ban cho bà có chồng mới và gia đình mới. Bà là mẹ của
Ô-bét và là bà của vua Đa-vít.
Bà Giô-kê-bét
Pha-ra-ô ra lệnh cho toàn
dân của mình: “Mọi con trai
Híp-ri sinh ra, hãy ném xuống sông Nin; mọi con gái thì để cho sống”. Có
một người thuộc dòng họ Lê-vi đi lấy một người con gái cũng thuộc họ Lê-vi.
Người đàn bà ấy thụ thai và sinh một con trai. Thấy đứa bé kháu khỉnh, nàng
giấu nó ba tháng trời. Khi không thể giấu lâu hơn được nữa, nàng lấy một cái
thúng cói, trét hắc ín và nhựa chai, bỏ đứa bé vào, rồi đặt thúng trong đám sậy
ở bờ sông Nin. Chị đứa bé đứng đàng xa để xem cho biết cái gì sẽ xảy ra cho em nó.
Có nàng công chúa của Pha-ra-ô xuống tắm dưới sông, trong khi các thị nữ đi đi
lại lại trên bờ. Nàng thấy chiếc thúng ở giữa đám sậy, thì sai con hầu đi lấy.
Mở thúng ra, nàng thấy đứa trẻ: thì ra là một bé trai đang khóc. Nàng động lòng
thương nó và nói: “Thằng này
là một trong những đứa trẻ Híp-ri”. Chị đứa bé thưa với công chúa của
Pha-ra-ô: “Bà có muốn con đi
gọi cho bà một vú nuôi người Híp-ri, để nuôi đứa bé cho bà không?”. Công
chúa của Pharaô trả lời: “Cứ
đi đi!”. Người con gái liền đi gọi mẹ đứa bé. Công chúa của Pha-ra-ô bảo bà
ấy: “Chị đem đứa bé này về
nuôi cho tôi. Chính tôi sẽ trả công cho chị”. Người đàn bà mang ngay đứa bé
về nuôi. Khi đứa bé lớn lên, bà đưa nó đến cho công chúa của Pha-ra-ô. Nàng coi
nó như con và đặt tên là Môsê; nàng nói: “Đó
là vì ta đã vớt nó lên khỏi nước” (Xh
1:22-2:10).
Bà Giô-kê-bét là mẹ của
Mô-sê, A-a-ron và Mi-ri-am. Bà dâng Mô-sê cho Thiên Chúa bằng cách làm một
chiếc thuyền và đặt Mô-sê vào cho trôi tới sông Nin sau khi Pha-ra-ô ra lệnh hạ
sát các bé trai của dân Ít-ra-en.
Bà Ra-khen
Thiên Chúa đã nhớ đến bà
Ra-khen, Thiên Chúa đã nhận lời bà và đã cho bà sinh đẻ được. Bà có thai và
sinh một đứa con trai. Bà nói: “Thiên
Chúa đã cất nỗi hổ nhục của tôi” (St
30:22-23).
Bà Ra-khen là vợ ông
Gia-cóp, mẹ của Giu-se và Ben-gia-min. Gia-cóp làm việc cho cha của Ra-khen
suốt 14 năm. Lúc họ thành vợ chồng, bà Ra-khen không thể sinh nở, nhưng bà kiên
tâm cầu xin, Thiên Chúa ban cho bà có một con trai.
Bà An-na
“Lại cũng có một nữ ngôn
sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ
khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi
tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng
Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về
Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem” (Lc 2:36-38).
Kinh Thánh không nói gì
về việc làm mẹ của bà An-na. Tuy nhiên, nữ ngôn sứ này đêm ngày thờ phượng Chúa
trong Đền Thờ, cả sau khi chồng mất và chịu đau buồn. Bà quan trọng vì bà là
gương mẫu cho các người mẹ và các phụ nữ về việc dành thời gian cho Chúa, Đấng
có thể chữa lành vết thương lòng.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét