KHÔN và KHỜ
( Chúa Nhật XXXII TN, năm A)
KHÔN và KHỜ là hai trạng
thái đối lập. Hai tâm tình cùng “ca hát” nhưng lại không vui vẻ như nhau – một
Khôn Khéo, và một Khờ Khạo. Thật thú vị khi nói về cách đánh vần trong Việt ngữ,
một cách là “ca hát” (KH) và một cách là “khờ” (KH). Hoàn toàn trái ngược!
Kinh Thánh minh định: “Tất
cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến
muôn đời” (Hc 1:1). Thánh Vịnh gia cũng xác định: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn
ngoan. Sáng suốt thay kẻ thực hành như vậy. Mãi đến thiên thu còn vang tiếng ngợi
khen Người” (Tv 111:10). Và Thánh Bênađô đặt vấn đề: “Nếu con người KHÔNG biết
kính sợ và yêu mến Thiên Chúa, bất kể họ gọi Ngài là gì thì KHÔNG THỂ gọi họ là
người khôn ngoan”. Kinh Thánh xác định: “Người khôn tránh bạn xấu” (Cn 1:8a).
Chúng ta đã thực sự là người khôn ngoan chưa? Coi bộ “căng” dữ nghen!
Ai cũng khả dĩ biết rằng
sự khôn ngoan là một đức tính cần thiết trong cuộc sống, Kitô hữu chúng ta gọi
là “nhân đức” – Đức Khôn Ngoan, một trong bảy ơn Chúa Thánh Thần. Người khôn
ngoan là người biết tiên liệu và dự phòng mọi thứ có xảy ra bất ngờ. Khôn ngoan
không có nghĩa là học cao, vì có cả một bụng chữ cũng chưa chắc khôn ngoan. Dù
không học nhiều, thậm chí là mù chữ, nhưng người ta vẫn có thể khôn ngoan. Sống
lâu cũng chưa chắc khôn ngoan hơn người ít tuổi. Từ xa xưa, Menander (342-291
trước công nguyên) đã xác định: “Tóc bạc KHÔNG sinh ra sự khôn ngoan”. Mạnh mẽ
và thẳng thắn, tác giả sách Huấn Ca nói mà không kiêng nể chi: “Già đầu mà ngu”
(Hc 25:2).
Thật thú vị bởi vì đức
khôn ngoan liên quan sự tỉnh thức. Sự tỉnh thức hoặc sự cảnh giác cũng rất cần
thiết trong đời sống. William Arthur Ward (1921-1994, Hoa Kỳ) so sánh: “Khắc
ghi một sự thật lớn lao vào trí nhớ là đáng nể, nhưng khắc ghi sự thật đó vào đời
mình mới là khôn ngoan”. Tác giả sách Giảng Viên cho biết: “NGƯỜI KHÔN biết mở
mắt nhìn, KẺ DẠI bước đi trong tăm tối” (Gv 2:14).
Người ta phải có sự khôn
ngoan trước khi có thể đạt được quyền lực, có khôn ngoan mới có thể sử dụng quyền
lực đó một cách đúng đắn, nếu không sẽ rất nguy hiểm – nguy hiểm cho người khác
và cho chính họ.
Ngày xưa, Vua Salômôn thực
sự khôn ngoan khi xin Chúa ban cho được khôn ngoan và hiểu biết để lãnh đạo
dân. Và rồi ông đã có mọi thứ, vì điều ông xin đã làm Thiên Chúa hài lòng. Ngài
giải thích: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu,
hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho
được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho
ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng,
và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban
cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các
vua được như ngươi” (1 V 3:11-13; 1 Sbn 1:11-12). Vua Salômôn nổi tiếng khôn
ngoan với vụ xử kiện “giành con” của hai cô gái điếm (x. 1 V 3:16-28).
I. ĐỨC KHÔN NGOAN
Kinh Thánh nói về tầm
quan trọng của sự khôn ngoan: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai
mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm
kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan thì
Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. Ai từ sáng sớm đã tìm Đức
Khôn Ngoan thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay
trước cửa nhà” (Kn 6:12-14).
Đề cập đức khôn ngoan,
chúng ta thử suy nghĩ vài “điều nhỏ” này: [1] Nếu chỉ biết sáng đi làm, chiều
trở về, ăn uống, xem ti vi, rồi ngủ nghỉ, thế thì người đó chẳng khác gì loài động
vật; [2] Nếu bạn chỉ có ý định gian lận cái gì đó của người khác thì đó cũng là
lúc đen tối nhất của cuộc đời rồi; [3[ Người thầy mà không dạy cho học trò biết
ham muốn học tập thì đó là người thầy tồi; [4] Học trò mà không biết lắng nghe
thầy cô giảng bài thì đó là học trò ngu dốt, vô trách nhiệm với chính cuộc đời
mình, chẳng hy vọng gì trong tương lai; [5] Người nóng vội, bộp chộp, động thái
đó ảnh hưởng xấu tới cả tinh thần lẫn thể lý, ảnh hưởng xấu tới cả những người
xung quanh, xét về phương diện tinh thần thì người đó không hơn một con chó giữ
nhà; [6] Sống mà không có ước mơ, luôn than phiền, người đó chẳng khác loài tầm
gửi, chỉ biết bám víu vào cây khác để hút nhựa sống, hoặc như loài đỉa hút máu
người khác để sống.
Và còn nhiều điều khác
tương tự như vậy. Lối sống đó là ích kỷ, chỉ biết yêu mình, không sáng suốt và
chắc chắn là không khôn ngoan chút nào. Như vậy là lãng phí cuộc đời, là “chết”
ngay trong khi còn sống, bởi vì sống quá thụ động, buông xuôi!
Kinh Thánh nói: “Trí khôn
ngoan làm miệng nên khéo léo, và thêm sức thuyết phục cho đôi môi” (Cn 16:23).
Sự khôn ngoan không chỉ làm cho người ta linh hoạt về tinh thần, mà còn tươi tỉnh
cả về thể lý: “Sự khôn ngoan làm cho gương mặt con người ngời sáng, và nét cứng
cỏi nên dịu dàng” (Gv 8:1). Sự khôn ngoan quá tuyệt vời, thế nên mới cần thiết.
Người khôn ngoan là người sâu sắc, nói ít, nghe nhiều, trầm lặng để thấm nhuần
đức khôn ngoan vào máu thịt: “Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự
minh mẫn toàn hảo. Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được
mọi lo âu. Vì những ai xứng đáng với Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan rảo
quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi
khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ” (Kn 6:15-16). Ở đây
không là sự khôn ngoan nhờ vào phàm nhân mà là sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên
Chúa.
Cái lợi này tích lũy thêm
cái ích nọ. Càng khôn thì càng khéo, và người ta thường ghép đôi là “khôn
khéo”. Cứ thế và cứ thế. Người khôn ngoan biết tìm kiếm những thứ bền vững,
không hư hỏng, dù cho họ có thể bị coi là “điên rồ” trong tầm nhìn của loài người.
Nhưng điều trường cửu đó là điều thuộc về Thiên Chúa. Hằng ngày họ cầu nguyện:
“Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.
Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất
hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện,
để thấy uy lực và vinh quang của Ngài” (Tv 63:2-3).
Khôn ngoan đích thực phát
xuất từ Thiên Chúa. Vì thế, người khôn ngoan là người chuyên tâm tìm kiếm Thiên
Chúa, và họ có được Thiên Chúa. Thật vậy, Thánh Vịnh gia cảm nghiệm và chia sẻ:
“Ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả
đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả
thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca. Con tưởng nhớ
Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với Ngài. Quả thật Ngài đã thương
trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui” (Tv 63:8). Khôn ngoan giúp người
ta bớt lo lắng, bớt lo lắng thì dễ an tâm, nhờ an tâm mà vui sống. Rất lô-gích!
Ngược lại, vì thiếu khôn
ngoan mà người ta cảm thấy bất an, khắc khoải, lo sợ và nuối tiếc. Người ta trở
nên bình an thư thái khi được ơn Chúa tác động. Thuyết nhà Phật gọi tình trạng
đó là “giác ngộ”. Lúc về già, thi sĩ Bùi Giáng sống như người mất trí, ông lang
thang khắp Saigon với phong cách rất “bụi”, và ông đã than thở:
Ta cứ ngỡ trần gian là
cõi thật
Thế cho nên tất bật đến
bây giờ!
Còn đối với thi sĩ Trần Tế
Xương, trong thi phẩm “Dại Khôn”, ông đã nhận định thế này:
Thế sự đua nhau nói dại
khôn
Biết ai là dại, biết ai
khôn
Thật vậy, khó có thể nhận
biết ai dại, ai khôn. Chúng ta tưởng người này khôn mà hóa ra người dại, chúng
ta tưởng người kia dại mà hóa ra người khôn. Thánh Phaolô cho biết: “Cái điên rồ
của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người” (1 Cr 1:25). Người khôn
ngoan nhất là người biết kính sợ Thiên Chúa (x. Tv 111:10). Làm người sống ở đời,
chẳng ai biết ngày mai trời mưa hay nắng, cũng không thể biết cuộc đời mình ra
sao, vì thế mà luôn cần tỉnh thức. Người khôn ngoan là người luôn biết tỉnh thức!
II. KHÔN và KHỜ
Khôn Khéo thì Tỉnh Thức,
Khờ Khạo (Không Khôn) thì Mê Muội. Khôn và Khờ là hai trạng thái khác nhau,
“khoảng cách” rất mong manh giữa hai trạng thái đó. Thiên Chúa đã cảnh báo mỗi
người chúng ta: “Nếu ngươi KHÔNG TỈNH THỨC thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi CHẲNG
BIẾT giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi” (Kh 3:3). Bão lũ, lụt lội, giông tố, động
đất, sóng thần, tai nạn, ... Cụ thể là cơn siêu bão Damrey vừa “tấn công” Khánh
Hòa ngày 4-11-2017. Chắc chắn không ai biết lúc nào gặp “sự cố”, dự báo thời tiết
cũng chỉ là dự đoán, không thể biết chính xác thời điểm nào. Ngay giữa lòng
thành phố Saigon mà có nhà tự dưng sụp hố làm lọt xe và người xuống. Ai có thể
dự đoán? Chắc chắn là “bó tay”, ấy thế mà người ta vẫn dám coi thường Thiên
Chúa, muốn loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống này. Thế thì thật khốn thay!
Thiên Chúa là Đấng duy nhất
và toàn năng, mọi sự đều bởi Ngài và nhờ Ngài, và Ngài luôn hiện hữu trong mọi
biến cố lịch sử của cuộc đời mỗi người. Danh nhân thông thái Rabindranath
Tagore (Rabīndranātha Thākura, 1941-1961, Ấn Độ) đã cảm nhận sâu sắc về Đấng
Toàn Năng: “Bạn không nghe thấy bước chân Người thầm lặng đó sao? Người tới và
luôn luôn thường tới. Người tới và luôn luôn thường tới hằng giờ, hằng đêm, hằng
ngày, hằng thời đại, … Người tới và luôn luôn thường tới qua lối đi nho nhỏ
trong rừng, vào những ngày Xuân đượm nắng ngạt ngào. Người tới và luôn luôn thường
tới trên xe mây ầm ầm tiếng sấm, vào những đêm Thu mưa ướt tối mù. Bước chân
Người đã giẫm lên tim tôi đang ôm nặng những nỗi buồn dai dẳng. Khi niềm vui
trong tôi ngời sáng, ấy là do chân Người vàng óng chạm vào”. Tư tưởng của R.
Tagore rất gần với Công giáo, đặc biệt là tập thơ “Lời Dâng” (Gitanjali), với
bút danh Bhānusiṃha (Sư Tử Thái Dương).
Tương tự, Thánh Vịnh gia
cũng chân thành thân thưa: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả
khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ
ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi
con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả
sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5). Thật vậy, đến
từng sợi tóc trên đầu chúng ta cũng đã được Thiên Chúa đếm cả rồi (Mt 10:30; Lc
12:7). Ai tìm Ngài thì Ngài cho người đó được gặp, ai lìa xa Ngài thì Ngài sẽ
lìa bỏ người đó (1 Sbn 28:9).
Chỉ nhỏ nhoi như sợi tóc,
chẳng đáng gì, thế mà Thiên Chúa còn quan phòng và tiền định, huống chi chuyện
sinh – tử, liên quan mạng sống của con người – mà Ngài lại chính là Sự Sống và
Nguồn Sống (Ga 14:6; Tv 36:10). Thánh Phaolô cho biết: “Về những ai đã an giấc
ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn
phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng
ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng tin rằng những người
đã an giấc trong Đức Giêsu sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu” (1 Tx
4:13-14).
Được làm người sống ở đời,
người ta không chỉ đi bằng đôi chân, mà quan trọng hơn, đó là phải “đi” bằng
cái đầu. Cũng vậy, sống không chỉ cần lương thực nuôi sống thân xác, mà quan trọng
hơn, đó là phải cần lương thực nuôi sống tinh thần và linh hồn. Kitô hữu cần cả
Thánh Thể và Lời Chúa.
Thánh Phaolô giải thích:
“Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những
người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng
đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng
tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, chính Chúa sẽ từ trời
ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến
chúng ta, những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi
trên đám mây cùng với họ để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta
sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau” (1
Tx 4:15-18). Qua đó, chúng ta biết chắc chắn thời đại của chúng ta là thời cánh
chung, nhưng không biết chúng ta có được diễm phúc chứng kiến thời điểm lịch sử
vĩ đại nhất hay không.
Vì không biết nên chúng
ta mới phải tỉnh thức, và không ngừng sống trong tình trạng tỉnh thức, nghĩa là
phải sống yêu thương đến từng chi tiết: “Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn
kính những người ấy, vì công việc họ làm. Hãy sống hoà thuận với nhau. Thưa anh
em, chúng tôi khuyên nhủ anh em: hãy khuyên bảo người vô kỷ luật, khích lệ kẻ
nhút nhát, nâng đỡ người yếu đuối, và kiên nhẫn với mọi người” (1 Tx 5:13-14).
Tin Mừng hôm nay là trình
thuật Mt 25:1-13, đề cập dụ ngôn “Mười Cô Trinh Nữ”, nêu rõ vấn đề “tỉnh thức”.
Đây là một trong các dụ ngôn “quen thuộc”, đặc biệt nói về thời điểm cánh
chung, nói chi tiết là liên quan ngày tận thế riêng của mỗi người chúng ta.
Trong dụ ngôn này có hai nhóm đối lập: Người Khôn và Người Khờ.
Qua đó, Chúa Giêsu ví Nước
Trời giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, có
năm cô dại và năm cô khôn. Các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Các cô
khôn mang đèn và mang chai dầu dự trữ. Vì chú rể đến chậm, nên các cô ngủ thiếp.
Nửa đêm, có tiếng báo “chú rể đến”. Bấy giờ, tất cả các cô đều thức dậy và sửa
soạn đèn.
Tuy nhiên, đèn của năm cô
dại cạn dầu, thế nên không thể đủ dầu để thắp sáng. Các cô khờ biết mình thiếu
dầu nên xin các cô khôn. Các cô khôn không dám cho bởi vì biết dầu của họ không
thể đủ dầu thắp đèn sáng đèn của chính mình và của người khác, thế nên họ
khuyên các cô dại nên ra tiệm hoặc cây xăng mà mua. Đang lúc các cô dại đi mua
dầu thì chú rể tới, các cô khôn đã sẵn sàng nên được đi theo chú rể vào phòng dự
tiệc cưới. Sau đó, cửa liền đóng lại. Cánh cửa cơ hội cũng khép lại!
Ngay lúc đó, các cô dại về
đến nơi và gọi cửa, thế nhưng chú rể nói thẳng: “Tôi bảo thật các cô, tôi không
biết các cô là ai cả!”. Quá bất ngờ, nhưng thế là xong! Vì vậy, Chúa Giêsu đã vừa
căn dặn vừa cảnh báo: “Anh em hãy CANH THỨC, vì anh em không biết ngày nào, giờ
nào”.
Hai năm rõ mười. Ai khôn,
ai dại đã rõ, không còn mơ hồ hoặc phỏng đoán. Người mà chúng ta tưởng là khôn
lại chỉ là người dại, người mà chúng ta tưởng là dại lại chính là người khôn.
Cũng trong thi phẩm “Dại Khôn”, thi sĩ Trần Tế Xương đã “ngộ” ra và kết luận:
Này kẻ nên khôn đều có dại
Làm người có dại mới nên
khôn
Trong bài “Dậy Mà Đi”, cụ
Ngô Tất Tố đã xác định: “Ai nên khôn (mà) không khốn một lần!”. Trong cái khó lại
ló cái khôn. Cuộc sống cho chúng ta biết rằng đau khổ càng nhiều thì kinh nghiệm
càng dày. Ngay cả trong lĩnh vực tinh thần hoặc tâm linh, chúng ta thấy tuyết
tương đối của Bác học Einstein vẫn đúng. Kỳ diệu thật! Tất nhiên chính Thiên
Chúa đã tác động để ông khả dĩ thấu hiểu quy luật tự nhiên và đưa ra định luật
như vậy, bởi vì mọi sự đều bởi Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa, Ngài là Đấng chí thánh, chí thiện và chí ái, nên
Ngài luôn yêu quý những ai đơn sơ và chân thật, xin dạy con thấu triệt lẽ khôn
ngoan (Tv 51:8), xin dạy con biết đếm tháng ngày con sống để tâm trí con được
khôn ngoan (Tv 90:12), xin giúp con chuẩn bị đủ dầu-đức-tin để đủ thắp sáng
đèn-đời trong thời gian canh thức. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng
cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét