Một cách đọc tích cực đối với tông huấn
Niềm Vui Yêu Thương
(Vũ
Văn An-23/Oct/2017)
Linh mục James F. Keenan,
Dòng Tên, cho rằng với Phục Sinh, “mọi sự trở nên mới… Và, nếu ta dám chấp nhận
ơn thánh đức tin, ta có thể thấy một năng động tính mới… Năng động tính Phục
Sinh, một năng động tính mời gọi ta nhìn sự việc ra mới, mời gọi ta thấy không
phải điều được phép mà là điều được kêu gọi, theo tôi, rất hiển hiện trong tông
huấn Niềm Vui Yêu Thương”.
Thực vậy, trong tông huấn
trên, theo Cha Keenan, có rất nhiều điều mới mẻ không hề làm ta lo lắng. Vì trong
Giáo Hội, mới mẻ không bao giờ mâu thuẫn với quá khứ. Phục Sinh luôn liên kết với
Bêlem! Sự mới mẻ của Niềm Vui Yêu Thương hết sức khéo léo đem truyền thống vào
hiện tại, vì lợi ích tương lai. Truyền thống luôn cần khai triển như nhà thần học
vĩ đại Marie Dominique Chenu từng viết; nếu không, nó không thể đem ta tới
tương lai.
Theo Cha Keenan, sau đây
là 12 điều mới mẻ của Niềm Vui Yêu Thương.
1.
Niềm Vui Yêu Thương đánh dấu một khúc rẽ. Theo Cha Keenan, khúc rẽ (Wendpunkt)
chính là tên các nhà thần học Đức gọi Niềm Vui Yêu Thương trong một cuốn sách
do họ biên tập. Vì theo họ, có nhiều viễn ảnh tươi mát trong tông huấn này:
giáo huấn thượng hội đồng, nền thần học tương quan về hôn nhân, lương tâm ra lệnh,
đồng hành thừa tác, thương xót mang thương xót, giáo hội tuyên xưng. Còn các
nhà thần học Bỉ thì gọi Niềm Vui Yêu Thương là “Điểm Bất Phản Hồi” (Point of No
Return).
2.
Hoa trái của một giáo hội có tính công đồng. Hai mươi lăm trước đây, Đức Tổng
Giám Mục John Quinn cho rằng chúng ta có các công đồng ra quyết định, không
khác tinh thần của Công Đồng Giêrusalem trong Công Vụ 15. Tại Công Đồng đó, các
thánh Phêrô, Phaolô và Giacôbê, cùng với các vị khác trong ban lãnh đạo Giáo Hội
mạnh bạo bàn tới việc làm thế nào để thích ứng với người ngoại giáo về phương
diện mục vụ, dưới ánh sáng các thực hành của Giáo Hội lúc đó.
Trong bối cảnh trên, tông
huấn Niềm Vui Yêu Thương đã phát sinh từ việc làm của hai Thượng Hội Đồng trong
đó các nhà lãnh đạo Giáo Hội cũng vật lộn, lý luận, tranh cãi và đấu tranh về
tình trạng hiện thời của hôn nhân Công Giáo và nhu cần phải có các giải đáp mục
vụ cho cuộc sống của những người kết hôn.
3.
Xin mạn phép tín lý! Đây là một tông huấn mục vụ. Một trong các vị tham dự Thượng
Hội Đồng lên tiếng đầu tiên khi tông huấn vừa được công bố là Đức Hồng Y
Kasper: “nó không thay đổi bất cứ điều gì của tín lý Gío Hội hay của giáo luật
– nhưng nó thay đổi tất cả”.
Đức Hồng Y Kasper hiểu rõ
cái nhìn thông suốt của sử gia giáo hội John O’Malley khi nhắc nhở chúng ta rằng
Công Đồng Vatican II là một công đồng mục vụ về cả văn phong lẫn nội dung. Ngài
cũng nói thêm rằng các đường hướng chính trong triều đại của Đức Giáo Hoàng
Phanxicô đều là giáo huấn của Vatican II.
Và theo O’Malley, giáo huấn
được coi là mục vụ khi ta cố gắng hiểu đúng tín lý. Giáo huấn mục vụ không bao
giờ là người em tồi của tín lý, mà là bạn đồng hành. Nhờ giáo huấn mục vụ, tín
lý được giảng dậy cách hữu hiệu. Và theo John Noonan, Jr., chính nhờ giáo huấn
mục vụ mà tín lý được khai triển.
4.
Nền thần học hôn nhân có tính cụ thể và tương quan sâu sắc. Đức Phanxicô đôi
lúc tỏ ra không vui khi người ta chỉ lưu ý tới chương tám của Niềm Vui Yêu
Thương mà bỏ qua 7 chương đầu. Phải đọc trọn cả 8 chương, người ta mới nắm được
giáo huấn mới của huấn quyền về hôn nhân.
Nhà thần học Đức, Konrad
Hilpert, nhận ra mối tương quan năng động giữa hôn nhân và tính dục trong Niềm
Vui Yêu Thương như là chìa khóa của sự mới mẻ nói trên. Ông cho rằng tập chú của
nền đạo đức học tương quan của nó không phải là hành vi tính dục và các qui luật
xác định về nó, mà đúng hơn, là bối cảnh thông đạt trong đó, một con người tiến
tới chỗ ý thức tốt hơn về khả năng biết, hiểu, chấp nhận và yêu thương một con
người khác.
Ở đây, ở Hoa Kỳ, có thể
nói Julie Hanlon Rubio là người viết nhiều và viết có ý nghĩa hơn cả về nền thần
học hôn nhân. Bà cho rằng đóng góp hàng đầu của tông huấn là “lời nó kêu gọi
các cặp vợ chồng trì chí trong tình yêu phu thê qua thời gian. Nó đề cập tới
các câu hỏi quan trọng: ‘Tại sao kết hôn? Tại sao tiếp tục ở lại trong hôn
nhân? Và cung cấp các câu trả lời tốt đẹp hơn bất cứ giáo huấn Công Giáo chính
thức nào khác về hôn nhân”.
5.
Dĩ nhiên, bạn cần một sách vỡ lòng mới mong đọc được nó. Các sách vỡ lòng thuộc
loại này không cần thiết vì lẽ tông huấn phức tạp, mà đúng hơn vì lẽ nó có tính
nền tảng và rộng dài. Nền thần học này cần được lên xương thịt cho các giáo hội
địa phương. Việc này cũng đã phát sinh ra cả một thị trường các sách vỡ lòng
này. Người Pháp đã phát hành một cuốn, được coi như “một cuộc hành trình cùng
đi với nhau”.
Học Viện Dòng Tên ở Nam
Phi đã cung cấp một cuốn tương tự như thế. Các sách vỡ lòng bằng tiếng Ý, tiếng
Tây Ban Nha và tiếng Đức đã được phổ biến khắp nơi trên liên mạng. Ở Hoa Kỳ, tạp
chí National Catholic Reporter cũng đã cung cấp một cuốn của họ, rồi Julie
Hanlon Rubio phát hành một cuốn chỉ dẫn đào tạo đức tin về nó qua nhà
Liturgical Press và nay Tom Rausch cùng Roberto Dell’Oro đang chủ biên một tuyển
tập cho nhà Paulist Press.
6.
Nền thần học luân lý có một trách vụ mới: đồng hành với những người khác trong
việc đào tạo lương tâm họ. Connor Kelly viết rằng với tông huấn này, Đức
Phanxicô thay đổi trọn bộ trách vụ của thần học luân lý: Từ nay, không những
lương tâm thừa nhận sự thật luân lý như đã được giảng dậy, mà nó còn biện phân
và xác định rõ đường đi của nó cho tương lai. Mọi người Công Giáo phải để lương
tâm mình trở thành hướng dẫn viên của mình.
Kelly bảo ta phải chú ý tới
đoạn 303. “Thế nhưng, lương tâm không những có thể thừa nhận rằng một hoàn cảnh
nhất định nào đó không tương ứng một cách khách quan với các đòi hỏi tổng quát
của Tin Mừng.
"Nó còn có thể thành
thực và trung thực nhìn nhận rằng đối với hiện nay, đây là đáp ứng quảng đại nhất
có thể có đối với Thiên Chúa, và tiến tới chỗ nhìn thấy một cách khá chắc chắn
rằng về phương diện luân lý thì đây là điều chính Thiên Chúa đòi hỏi giữa tính
phức tạp cụ thể trong các giới hạn của họ, dù nó chưa trọn vẹn là lý tưởng
khách quan.
"Dù sao, ta hãy nhớ
rằng việc biện phân này có tính năng động; nó phải mãi mãi cởi mở đối với các
giai đoạn tăng trưởng mới và các quyết định mới có khả năng giúp cho lý tưởng
này được thể hiện cách trọn vẹn hơn”.
Việc Đức Giáo Hoàng nói đến
khả năng biện phân của lương tâm hoàn toàn ăn ý với nền thần học của Công Đồng,
nhất là trong Gaudium et spes. Kelly viết: “Khi nghiêm chỉnh nhận lấy ý tưởng
này của Công Đồng, Niềm Vui Yêu Thương đã thăng tiến một cách có ý nghĩa cái hiểu
của huấn quyền về lương tâm, nói lên một bước nữa trong diễn trình liên tục
khai triển và phục hoạt truyền thống vốn sinh động trong Giáo Hội từ thời
Vatican II”.
Điều trên có nghĩa lương
tâm Công Giáo nay tự do được quyền làm ngơ giáo huấn của Giáo Hội hay không?
Không. Nhưng ta nên hỏi giáo huấn của Giáo Hội trực tiếp ra lệnh đến mức nào
cho các quyết định bình thường của lương tâm Công Giáo.
Giáo Hội hướng dẫn ta
trong một số vấn đề thuộc việc làm cha mẹ và đời sống phu thê, nhưng việc sống
ơn gọi đó trên căn bản hàng ngày tùy thuộc sự biện phân tích cực của lương tâm
để biết được điều gì tốt nhất cho con cái, cho hôn nhân và cho gia đình. Ở nơi
làm việc cũng thế, vấn đề giải trình trách nhiệm (accountability), sự hợp tình
hợp lý, sự trong sáng, và tính cẩn mật tư riêng thúc đẩy ta thường xuyên phải sử
dụng lương tâm.
Các quyết định đa dạng phải
đưa ra hàng tuần trên đây không được thực hiện bằng các tham chiếu một thủ bản
có tính huấn quyền nào đó, mà đúng hơn bằng cách thường xuyên tra vấn lương tâm
mình.
7.
Thói quen nại tới lương tâm mình chính là việc biện phân luân lý. Đức Phanxicô
đã nắm được ý tưởng tuân theo lương tâm khi nói tới biện phân. Việc nhấn mạnh tới
biện phân này thường được các độc giả của thông điệp nhận ra; như các biên tập
viên của tạp chí Commonweal từng ghi nhận, đây là việc “thừa nhận tính phức tạp
của con người và sự ủng hộ tính phụ đới”.
Các nhà thần học luân lý
coi việc huấn quyền cổ vũ việc biện phân này như lời mời gọi chúng ta thăm dò
cách làm thế nào, người Công Giáo chúng ta, bằng lương tâm, biện phân được điều
Chúa Kitô hằng yêu cầu chúng ta bất luận ở thời nào. Chính đây là điều nhiều
người gọi là lời tông huấn mời gọi ta đừng sa vào chủ nghĩa duy tối thiểu mà là
duy tối đa.
8.
Đồng hành là kiểu mẫu của thừa tác vụ Niềm Vui Yêu Thương. Tiếng nói, phong
thái, và các tầm nhìn thấu suốt của Đức Phanxicô có tính mục vụ tuyệt diệu và
hiện diện cùng khắp tông huấn. Chúng hiện diện cùng khắp đến nỗi khi đọc tông
huấn, ta có cảm giác kỳ lạ là Đức Phanxicô đang nói với chính ta; ngài thực sự
theo bước chân ta từ phòng này qua phòng nọ trong nhà ta cho tới khi ngồi xuống
dưới bếp và ta cảm thấy ngài đang nói với ta về việc cho và nhận trong các mối
tương quan. Nhưng, đồng thời, ngài cũng lắng tai nghe, chờ câu trả lời và bình
luận của ta. Ngài đồng hành với ta khi ta đối phó với cuộc hôn nhân, với các mối
liên hệ của chính ta.
Có thể nói đồng hành là
hiệu lệnh được Đức Phanxicô gửi tới các giám mục, giáo sĩ, tu sĩ và các thừa
tác viên giáo dân của ngài. Chúng ta được mời gọi đồng hành với người khác
trong lúc họ đào tạo lương tâm họ và đưa ra các quyết định hàng ngày trong cuộc
hôn nhân, trong gia đình và trong cộng đồng của họ.
9.
Việc đồng hành nối kết chứ không dẹp bỏ lương tâm Công Giáo. Ở phần đầu tông huấn,
Đức Phanxicô viết rằng “Chúng ta được mời gọi đào tạo các lương tâm chứ không
thay thế chúng” (Niềm Vui Yêu Thương 37). Qủa là câu nói thời danh. Nó được
trích dẫn rất nhiều lần như một nhận định tự phê đối với thừa tác vụ giáo huấn
và giảng dậy của Giáo Hội.
Câu nói trên xuất hiện
lúc Đức Phanxicô đề cập tới việc ta thường không cởi mở đối với hành động của
ơn thánh. Ngài bảo: “ta cũng thấy khó dành chỗ cho lương tâm của tín hữu, những
người rất hay hết lòng đáp ứng Tin Mừng giữa nhiều hạn chế của họ, và có khả
năng thực hiện việc biện phân của họ trong các tình huống phức tạp”. Đây là một
văn kiện của huấn quyền biết dành chỗ cho lương tâm Cng Giáo.
10.
Thừa tác vụ đồng hành này không khác chi các giáo huấn mục vụ của Đức Gioan
Phaolô II. Ta có thể nhận ra khá nhiều lời giảng dậy trong đó Đức Gioan Phaolô
II cung cấp cho các cặp vợ chồng các giải pháp mục vụ về đồng hành. Hai lời chỉ
giáo đó tìm thấy trong tông huấn Familiaris Consortio (1981). Lời thứ nhất, ở số
34, nói tới diễn trình hợp pháp qua đó, một cặp vợ chồng dù nhìn nhận thẩm quyền
của Humanae Vitae, nhưng vì không thể tuân theo giáo huấn của nó, nên đã đi tìm
lời khuyên bảo mục vụ và trong một số trường hợp, nhờ luật tiệm tiến, mà được
rước lễ dù họ vẫn thực hành việc kiểm soát sinh đẻ.
Lời chỉ giáo thứ hai về đồng
hành tìm thấy ở số 84. Điều đáng lưu ý là trong cuộc họp báo công bố Niềm Vui
Yêu Thương, Đức Hồng Y người Áo, Christoph Schönborn, được hỏi làm cách nào giảng
hòa việc Đức Phanxicô mở ra vấn đề xưng tội và rước lễ của người ly dị tái hôn
với việc Đức Gioan Phaolô II bác bỏ việc cho phép những người này rước lễ chỉ
trừ sau khi xưng tội, họ đồng ý sống “tiết dục hoàn toàn” (84).
Đức Hồng Y trả lời rằng:
Với tông huấn Familiaris, Đức Gioan Phaolô II cho phép các người Công Giáo ly dị
tái hôn nhưng sống “tiết dục hoàn toàn” được rước lễ. Trước Đức Gioan Phaolô
II, không có vị giáo hoàng nào nói tới khả thể này cả. Bởi thế, giống như Đức
Gioan Phaolô II, há Đức Phanxicô không được phép nêu lên các vấn đề khác hay
sao?
Đức Hồng Y nói tiếp “ở
đây, có sự liên tục trong giáo huấn, nhưng cũng có điều mới mẻ thực sự. Có sự
phát triển thực chất về tín lý, chứ không phải gián đoạn”.
Rocco Buttiglione trên tờ
Osservatore Romano của Tòa Thánh nói thêm vào chỗ Đức Hồng Y Schönborn còn bỏ
ngỏ. Ông đặt câu hỏi: “Có chăng bất cứ sự mâu thuẫn nào giữa các vị giáo hoàng
ra vạ tuyệt thông cho các người ly dị tái hôn và Thánh Gioan Phaolô II, người
đã cởi bỏ vạ tuyệt thông đó?” Làm sao Đức Phanxicô lại có thể khác với Đức
Gioan Phaolô II? Cả hai vị đều đọc các dấu chỉ thời đại và hướng dẫn Giáo Hội
qua sự phát triển của Giáo Hội.
11.
Sự phát triển này đồng hành cả với lương tâm của các người Công Giáo ly dị tái hôn.
Người ta đã viết nhiều về vấn đề của Đức Phanxicô và việc liệu ngài có cho phép
hay không các người này được lãnh nhận các bí tích hòa giải và rước lễ trong một
số trường hợp họ thực sự mong muốn trong lương tâm.
Ở Ghi Chú số 351, qua một
cách nói, ngài gợi ý rằng đây là một vấn đề sẽ do các giáo hội địa phương quyết
định. Dù một số người có thể ngạc nhiên và nhiều người khác lý luận rằng các
giáo hội địa phương không thể quyết định các vấn đề như thế này, thì ta vẫn nên
nhớ một trong các thành tựu của Vatican II là phục hồi vai trò không thể thiếu
của các giáo hội địa phương bên trong Giáo Hội hoàn vũ.
Đức Phanxicô tìm hết cách
để thực thi các quyết định của Công Đồng và, như đã thấy trên đây về tính công
đồng và về lương tâm, tinh thần của Công Đồng đã trở thành linh hồn của phần lớn
giáo huấn của chính ngài.
Lisa Sowle Cahill nhận định
rất đúng rằng “điều Đức Phanxicô đã làm thực sự là ban phép và dành không gian
cho các giám địa phương được thử nghiệm các canh tân linh động, đầy thương xót
và có tính mục vụ nhiều hơn, nhưng ngài không ra lệnh điều này”. Tuy nhiên,
ngài theo dõi và chờ đợi.
Một ít sáng kiến đáng được
nhắc đến ở đây. Các giám mục ở Buenos Aires đã viết một lá thư cho các linh mục
của họ liên quan đến việc phải giải thích chương tám ra sao. Sau khi thừa nhận
việc tông huấn Familiaris Consortio cho phép các cặp ly dị tái hôn sống tiết dục
được rước lễ, các giám mục viết thêm rằng nếu giải pháp này không khả thi, thì
“vẫn có thể còn có con đường biện phân”.
“Trong một trường hợp cụ
thể, khi thừa nhận có sự hiện hữu của những giới hạn có thể làm giảm mức độ
trách nhiệm và qui lỗi, nhất là khi một ngời tin rằng họ sẽ phạm một sai lầm
khác có thể gây hại tới con cái do cuộc kết hợp mới sinh ra, thì Niềm Vui Yêu
Thương dẫn khởi khả thể được lãnh nhận các bí tích hòa giải và Thánh Thể”.
Các ngài còn viết thêm rằng
trong một số trường hợp, sự kín đáo riêng tư (confidentiality) sẽ là điều khôn
ngoan khi cộng đồng địa phương tiến bước trong một “tinh thần hiểu biết và cởi
mở”. Đức Phanxicô khen ngợi lá thư này, coi nó “rất tốt và hoàn toàn nắm được ý
nghĩa chương tám của Niềm Vui Yêu Thương. Không có lối giải thích khác. Tôi chắc
chắn nó sẽ mang lại nhiều ơn ích”.
Trường hợp thứ hai là Đức
Tổng Giám Mục Dominique Lebrun của Rouen, Pháp. Ngài đã giới thiệu với tổng
giáo phận 7 vị linh mục làm “thừa sai của Lòng Thương Xót” có nhiệm vụ “đặc biệt”
chào đón các người ly dị hiện đang sống trong một mối liên hệ mới, với mục tiêu
giúp họ “xét lương tâm hoàn toàn theo ý họ dưới ánh sáng Lời Thiên Chúa”.
Dĩ nhiên, có những giáo hội
còn đi trước cả Niềm Vui Yêu Thương. Ít ngày sau khi công bố Niềm Vui Yêu Thương,
Đức Hồng Y Schönborn tiết lộ rằng ngài “không ít tự hào” khi thấy tông huấn
“hoàn toàn tiếp nhận” thực hành mục vụ liên quan tới các người ly dị tái hôn vốn
đã được diễn ra tại giáo phận ngài 15 năm qua.
12.
Phục hồi lòng thương xót. Đây là một điểm son của Niềm Vui Yêu Thương. Ở số
311, Đức Phanxicô viết rằng “Đôi lúc, ta thấy khó có thể dành chỗ cho lòng yêu
thương vô điều kiện của Thiên Chúa trong sinh hoạt mục vụ của ta. Ta đặt quá
nhiều điều kiện lên lòng thương xót đến nỗi ta làm rỗng hết ý nghĩa cụ thể và tầm
quan trọng thực sự của nó. Đây là cách tệ hại nhất để làm loãng Tin Mừng. Chẳng
hạn, đúng là lòng thương xót không loại trừ công lý và chân lý, nhưng trước hết
và trên hết, ta phải nói rằng lòng thương xót chính là sự viên mãn của công lý và
là biểu hiện ngời sáng nhất của chân lý Thiên Chúa. Vì lý do này, ta nên luôn
coi là ‘thiếu thỏa đáng bất cứ quan niệm thần học nào, cuối cùng, nghi vấn cả sự
toàn năng của Thiên Chúa và, nhất là, lòng thương xót của Người’”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét