THẨM PHÁN NHÂN HẬU
( Chúa Nhật XXXIV TN, năm A – Lễ Chúa Kitô Vua)
Thẩm phán là người có quyền
xét xử tại một phiên tòa, cũng gọi là quan tòa. Tại một số quốc gia, quyền hạn
của thẩm phán được chia sẻ với bồi thẩm đoàn hoặc hội thẩm. Tòa án cũng có nhiều
cấp khác nhau, cao nhất là tòa án tối cao.
Thiên Chúa Cha không xét
xử ai, mà Ngài trao mọi quyền xét xử cho Thiên Chúa Con (x. Ga 5:22). Thật vậy,
chính Chúa Giêsu đã từng minh định với các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền
trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Chúa Giêsu là Vua của các vua, là Chúa của các
chúa, nhưng Ngài không là Vua như người ta tưởng, bởi vì chính Ngài đã xác định
với ông Philatô rằng Vương Quốc của Ngài không thuộc về thế gian này (x. Ga
18:36), tức là thuộc về Cõi Trời, nơi mà phàm nhân không hề biết, không phải
như cung trăng hoặc một nơi xa lạ nào đó mà thiên văn học đã phát hiện.
Như chúng ta biết, xã hội
trần gian được phân chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia.
Trong mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, gọi là nguyên thủ
quốc gia. Tùy thời mà người ta gọi vị đó bằng các danh từ khác nhau: Chúa Thượng,
Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống, ...
Các nước cộng sản gọi vị đó là Chủ Tịch. Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo
Hoàng.
Người ta có câu: “Quan nhất
thời, dân vạn đại”. Nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn,
kể cả quyền lực, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh viễn, thường tồn, bất biến, và có
quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục” (Lc 12:5; x. Mt 10:28). Khi bị
thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thẳng thắn nói với Philatô là người có
toàn quyền trong tay: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban
cho ngài” (Ga 19:11). Quyền xét xử của Philatô chỉ trong thời điểm đó, có quyền
vì còn chức, tạm thời thôi.
Xét về từ ngữ và ý nghĩa,
trong Hán tự có chữ 王
[wáng], nghĩa là vương (vua). Về chiết tự, ba “gạch ngang” tượng trưng cho
Thiên – Nhân – Địa, và được nối kết bằng một “gạch đứng”, ý nói “vua là người nối
kết trời, đất và con người”. Ý nghĩa thật thâm sâu, và với ý nghĩa này thì vua
phải là người cao thượng, thế nhưng người ta thường lạm quyền thái quá. Chỉ là
vua trần gian mà còn là “mối liên kết” như vậy thì huống chi Chúa Giêsu Kitô,
Thiên Vương của vũ trụ.
Gần gũi với chữ 王 (vương) là chữ 主
[Zhǔ], nghĩa là “Chủ” hoặc “Chúa”, viết giống như chữ Vương nhưng có thêm “ngọn
lửa” ở trên: Chúa cũng là vua nhưng có đức độ, gần gũi với con người, đốm lửa
trên đầu Ngài là ánh sáng soi sáng cuộc đời chúng ta, thúc bách chúng ta đi
theo Ngài, và đó là ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Hán tự là chữ tượng hình mà
hàm súc thâm thúy quá!
Vừa mặc nhiên vừa minh
nhiên, Chúa Giêsu là Đệ Nhất Thiên Vương, thế nhưng Ngài lại hạ mình đến tận
cùng vì yêu thương các thần dân. Thật là quá đỗi lạ lùng, Ngài là Vua của các
vua và là Chúa của các chúa nhưng lại hoàn toàn trái ngược với các vua chúa trần
gian, vì Ngài là Vua-đa-không: KHÔNG ngai, KHÔNG đăng quang, KHÔNG vương miện,
KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn
phòng làm việc, KHÔNG nghi thức, KHÔNG thiết triều, ... Thậm chí Ngài còn SINH
nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Tại sao vậy? Câu trả
lời được chính Chúa Giêsu xác định với Tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc
về thế gian này” (Ga 18:36). Tuy nhiên, Ngài lại có quyền tối thượng: “Chúa Cha
không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự
sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy,
lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người” (Ga 5:22,
26-27).
NHÂN HẬU và KHIÊM NHƯỜNG
Vua chúa trần gian tự nhận
là Thiên Tử, là Con Trời, hét ra lửa, và có trọn quyền sinh sát: “Quân xử thần
tử, thần bất tử bất trung”. Khủng khiếp quá! Còn Chúa Giêsu khác hẳn, khi
Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài thản nhiên trả lời: “Chính ngài nói
rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng
cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Vua Giêsu
luôn chạnh lòng thương, luôn động lòng trắc ẩn, giàu lòng thương xót, đến thế
gian để cứu những gì đã mất, và Ngài đưa ra lời khuyên: “Hãy học với tôi, vì
tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Là Thiên Vương và cũng là Thẩm
Phán Tối Thượng nhưng Chúa Giêsu lại vô cùng hiền lành, nhân hậu, từ tâm. Ngài
là Quan Tòa khiêm nhường và nhân ái.
Quả thật, chính Đức Chúa
là Chúa Thượng đã tuyên phán: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân
hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn
chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo
chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt” (Ed
34:11-12). Ngay khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài vẫn đang hiện diện ở bên
chúng ta. Khi cuộc đời chúng ta êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc
đời chúng ta như lâm vào ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà Ngài còn vác
chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự là vậy, nhưng vì phàm nhân
yếu đuối, thế nên chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo!
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa
đã tuyên phán rạch ròi: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho
chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con
nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo
mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt
chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ
xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê” (Ed 34:15-17). Chắc chắn Ngài
không “bỏ qua” bất cứ ai, đặc biệt là người nào càng bất hạnh thì càng được
Ngài thương xót và chăm sóc nhiều hơn. Thật vậy, Ngài không so đo hơn thua, chấp
nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để rong ruổi tìm kiếm cho được MỘT con chiên xấu
xí, ốm yếu, hôi tanh (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7).
Tìm kiếm trong số các vua
chúa trần gian, nếu không là “hàng hiếm” thì cũng chẳng thấy nhiều người vì
dân, vì nước, đích thân vi hành để biết dân tình ra sao. Mấy ai được như Hoàng
đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa? Ông là vị vua thật
tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ Tổng thống đến khu
dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Đến nơi nào thì chỉ ở
“trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo”, liệu có bao nhiêu phần trăm trung
thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!”.
Quan trên, quan dưới vô vàn – Ít quan thật tốt, nhiều quan tham tàn! Tuy ít
nhưng có những người đáng nể phục là cố TT G.B. Ngô Đình Diệm, và một số tổng
thống của Hoa Kỳ, đó là sự thật mang tính lịch sử, không thể chối cãi.
Cấp nào cũng đa dạng. Ở cấp
thấp hơn cũng chẳng khá hơn, tỉnh trưởng hoặc quận trưởng, trong số đó có bao
nhiêu người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân? Rồi giám mục hoặc linh
mục, trong số đó có bao nhiêu người tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi
lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có thực sự tìm chiên lạc, chiên yếu,
chiên bệnh, hay chỉ thân với chiên béo? Có chức nên có quyền, họ đủ lý lẽ biện
hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói
tới những điều “nhạy bén” tương tự như vậy, chắc hẳn nhiều người cũng cảm thấy
“dị ứng” lắm!
Phải chân nhận rằng thực
sự ấn tượng với Đức cố GM Jean Cassaigne (1895-1973), người ta thường thân
thương gọi ngài là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc Kơ Ho, chết vì lây bệnh
cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. Khi còn là
Giám mục của GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân
chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người
Việt Nam, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu
thương làm sao sống được vậy? Đó là phong cách của thánh nhân!
Biết rồi, khổ lắm, nói
mãi! Cuộc sống thật nhiêu khê, biết nhiều thì khổ nhiều, thấy nhiều thì chán
nhiều, nghe nhiều thì “nóng gáy” nhiều: “Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền
muộn; càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau” (Gv 1:18). Làm ngơ thì người ta
nói mình “sợ”, nói ra thì người ta “không ưa”. Thẳng thắn sẽ “va chạm”, chỉ khổ
mình, nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ “vào hùa” lắm. May mà có Chúa
là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Thánh Vịnh gia chia sẻ cảm nghiệm tâm
linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh
tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức
cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv
23:1-3). Ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy!
Cái gì cũng cần khổ luyện.
Đức tin cũng vậy, phải được tôi luyện trong nhiều nỗi gian truân hoặc đoạn trường
thì mới có thể dần dần trở nên “tinh ròng”, và lúc đó chúng ta mới có thể xác
tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn
trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước
mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa”
(Tv 23:4-5). Thánh Vịnh gia chia sẻ thêm: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp
ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài
triền miên” (Tv 23:6). Hạnh phúc quá! Nhưng hạnh phúc đó không thể cứ sống tà
tà mà có được. Vâng, Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6;
Kn 16:13), Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để mặc chúng ta
lâm vào ngõ cụt. Tại sao? Vì bản chất của Ngài là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), mà
tình yêu là bất tử.
HẰNG HỮU và HẰNG SINH
Như chúng ta đã biết,
Chúa Giêsu là Vua, là Đệ Nhất Thiên Vương, nhưng không phải là Phú Vương mà là
Hàn Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang.
Ngài là Vua mà cuộc sống như vậy, làm sao chúng ta có thể sống khác Ngài?
Và có điều đặc biệt: Chúa
Giêsu LÀ Vua của người sống chứ KHÔNG LÀ Vua của kẻ chết. Thật vậy, dù Ngài bị
người ta ghen ghét “tới bến” và đã giết Ngài chết thê thảm, nhưng Ngài đã từ
cõi chết sống lại, cai trị cả Tử thần (x. 1 Cr 15:25), và trở thành Vua Hằng
Sinh. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường
cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết
thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên
đới với A-đam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được
Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức
Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi
sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi
dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:20-24).
Chúa Giêsu là Vua Hằng Hữu
và Hằng Sinh, nhưng Ngài đã chịu đau khổ tột cùng, thế nên Ngài có toàn quyền.
Hoàn toàn hợp lý. Thánh Phaolô cho biết: “Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền
cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị
tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi
nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô” (1
Cr 15:25-27). Đức Kitô là chính Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với
Chúa Con chỉ là MỘT mà thôi: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người,
vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy,
Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28).
Vào thời quân chủ ngày
xưa, vua cho sống thì được sống, vua bảo chết thì phải chết, không muốn cũng phải
tuân lệnh, bất tuân là bất trung. Chính cái chết minh chứng lòng thành của tôi
trung. Đã từng có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng
trung thành với vua. Còn nữa, người ta không được phép nhìn mặt vua và phải
tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng,
sinh – sanh,...), thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua, mà
chỉ được tâu “cái bệ rồng” của vua ngồi mà thôi: “Muôn tâu bệ hạ”. Ui da! Cái
ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng với Vua Giêsu, không sợ “phạm
húy”, Ngài cho phép chúng ta cứ thân thưa thẳng thắn: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha
tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài!”.
Chúa Giêsu là Vua nhưng
Ngài không hề được tiền hô hậu ủng, không hề xa giá, chỉ một lần duy nhất được
tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp Lễ Quá Hải (Vượt
Qua), thế nhưng chỉ vài ngày sau là họ lật mặt nhanh hơn trở bàn tay: “Đóng
đinh nó vào Thập Giá” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15).
Lạy Chúa tôi! Chúng ta cũng chẳng hơn gì đâu!
Ròng rã suốt những năm
tháng hoạt động mục vụ, hàng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi nẻo đường,
đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người
cùng đinh nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền
của bất kỳ ai. Là vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã thực hiện đúng
như lời Ngài dạy người khác làm: “Ai làm lớn phải phục vụ” (Mt 20:24-28; Mc
10:40-45). Ngài không cậy quyền, không ỷ thế, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng
yêu thương, ngôn hành luôn song song, thậm chí Ngài còn LÀM NHIỀU HƠN NÓI. Ngài
không chỉ là Vua Nhân Lành, Vua Hằng Sinh, Vua Tình Yêu, Vua Thương Xót, mà
Ngài còn là Vua Nhân Ái và Công Bình. Vô cùng may mắn khi chúng ta là thần dân
của Vị Vua này. Deo gratias – Tạ ơn Thiên Chúa!
NHÂN
ÁI và CÔNG BÌNH
Nhân ái và công bình là nền
tảng vững chắc của cuộc sống. Tin Mừng hôm nay là trình thuật Mt 25:31-46, cho
biết về cuộc tái lâm và cách xét xử của Chúa Giêsu – Thiên Vương Chí Thánh và
Thẩm Phán Tối Thượng. Chúa Giêsu đã sử dụng hình ảnh thực tế, gần gũi đời thường
và dễ hiểu: Chiên và Dê. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất
đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “dễ thương”; dê là loài
động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt”. Chiên là hình ảnh
của Người Lành, dê là hình ảnh của Kẻ Dữ. Hai hình ảnh đối nghịch nhau!
Tuyệt đối vâng lời Chúa
Cha, Chúa Giêsu đã bằng lòng chịu chết để cứu độ nhân loại, vì thế Ngài cũng có
toàn quyền phân xử, nhưng hoàn toàn công minh chính trực và đầy tình xót
thương. Khi Ngài đến thế gian lần thứ hai, Ngài được các thiên sứ theo hầu, và
Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài,
rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng
bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu nói với những người ở
bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc
dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã
cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi
trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù,
quý vị đã đến hỏi han” (Mt 25:34-37). Hạnh phúc thay cho những ai được Ngài cười
và nói như vậy!
Khi nghe Ngài nói vậy, họ
ngạc nhiên vì họ chưa một lần thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, là
khách lạ mà tiếp rước, trần truồng mà cho mặc, đau yếu hoặc ngồi tù mà thăm viếng
giúp đợ. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những
anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:41).
Rồi Đức Vua nói với những
người ở bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời
đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị
đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã
không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi
tù, quý vị đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-44).
Họ cũng ngạc nhiên và
phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong
những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Tôi vậy” (Mt
25:46). Hết cách phân minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó
là công bình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập
tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng vốn sống thế nào để
sinh lời (Mt 25:14-30), và thực hành đức ái (Mt 25:31-46).
Ngài không thiên vị ai,
không thể lấy cớ mình là “ông này” hoặc “bà nọ” để mong được “ưu tiên”. Có lẽ
chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính”, thích đùa dai.
Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi hằng năm có
nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn “bình chân như vại”, thích những “sự lạ”
chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai
hay nhân tai? Việt Nam cũng không ngoài danh sách. Cứng lòng hay tự mãn?
Nhìn thấy Chúa trong người
khác là điều không dễ, nhưng đó là điều Chúa Giêsu đề cao: Mỗi lần chúng ta
giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu
nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là
tha nhân, là bất kỳ ai, dù không quen biết, thậm chí là kẻ thù. Thật tuyệt vời
với cách suy luận của đại văn hào Victor Hugo: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho
Thượng đế vay”. Một cách nhận định chứa đầy niềm tin Kitô giáo.
Lòng thương xót cũng
chính là tình yêu thương, chính Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga
13:1), Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ đợi chúng ta sám hối, đợi
chúng ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, điển hình
là đến với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Không được tha thứ là tại
chúng ta quá cố chấp mà thôi! Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến QUYỀN
LỢI, không mấy ai nói đến BỔN PHẬN”. Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban “miễn
phí” cho chúng ta đủ điều, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né “cái
khó” càng nhiều càng tốt. Mâu thuẫn. Vậy là chúng ta không công bằng với Chúa đấy!
Lạy Thiên Vương Giêsu Kitô, xin thương tha thứ, nâng đỡ, che chở, độ
trì, soi sáng và hướng dẫn con trong Cung Đường Tình Yêu cao cả và tuyệt đối của
Thiên Chúa. Lạy Thẩm Phán nhân hậu, xin dủ lòng thương xót con – kẻ tội lỗi khốn
nạn. Con tín thác vào Ngài, Đấng Cứu Độ hằng sinh, đồng hiển trị cùng Thiên
Chúa Cha, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét