HÔN NHÂN CHA MẸ ẢNH HƯỞNG ĐỜI SỐNG ĐỒNG TÍNH CỦA CON CÁI
(Trần
Mỹ Duyệt)
Đề cập đến những ảnh hưởng
tốt mà cha mẹ để lại cho con cái, ca dao Việt Nam có câu: “Cha mẹ hiền lành để
đức cho con”. Nhưng khi nói đến những hậu quả của đời sống thiếu gương sáng của
cha mẹ đối với con cái, tiền nhân của ta cũng có câu: “Đời cha ăn mặn, đời con
khát nước”.
Như vậy, dù tốt hay xấu,
dù đức độ hay thiếu đức độ, đời sống của cha mẹ rõ ràng đều mang lại hậu quả
cho con cái dù họ muốn chối bỏ hoặc không nhìn nhận những hậu quả việc làm của
họ. Điều này không cần những chứng minh khoa học, cũng không cần những phân
tích của tâm lý, đạo đức hay xã hội. Một điều hiển nhiên và trong thâm tâm của
mỗi người đều nhận thức được. Nó được gọi là tâm thức chung.
Cũng có những phụ huynh
thường lẩn tránh trách nhiệm và đổ lỗi cho hoàn cảnh hoặc những lý do vượt
ngoài ý muốn: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”. Họ nghĩ rằng với ý nghĩ này, họ
sẽ vô can trong đời sống luân lý hoặc đạo đức của mình, và phủi tay trong vấn đề
giáo dục con cái. Nhưng ai ai cũng hiểu
rằng, không có ông trời nào sinh ra tính lười biếng, tính nói dối, ăn cắp, và
tính cờ bạc của con cái họ. Nếu vậy, sợ là bất công với những phụ huynh, những
cha mẹ ngày đêm vất vả, lo lắng dạy dỗ và quan tâm đến con cái. Trong Thánh
Kinh, chính Chúa Giêsu cũng đã đề cập đến hậu quả này một cách rất rõ ràng:
“Không có cây nào tốt sinh trái xấu, hoặc cây xấu sinh trái tốt. Xem quả thì biết
cây” (Luca 6:43-44).
ĐỒNG
TÍNH VÀ ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI
Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ
(American Psychiatric Association) đã loại bỏ đồng tính luyến ái khỏi danh sách
tâm bệnh vào năm 1973. Hai năm sau, năm 1975, Hiệp Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ
(American Psychological Association) cũng loại bỏ hội chứng đồng tính khỏi danh
sách tâm bệnh. Và năm 1990, Tổ Chức Y Khoa Thế Giới cũng đã quyết định loại bỏ
khỏi danh sách tâm bệnh những người có suy nghĩ và lối sống đồng tính. Tuy
nhiên cho đến nay, nhiều tổ chức và các nhà tâm lý vẫn cho rằng những quyết định
trên ảnh hưởng nhiều bởi áp lực chính trị. Tiến sĩ Stanton L. Jones, Giáo sư
tâm lý học tại Đại học Wheaton cho rằng mặc dù không coi đồng tính luyến ái là
hội chứng tâm bệnh giống như tâm thần phân liệt, ảo tưởng, hay ảo giác, nhưng
cũng không thể xem nó là một lối sống “bình thường”.
Về ảnh hưởng di truyền
liên quan đến người đồng tính cho đến nay vẫn được coi như một khám phá của
khoa học, nhưng cũng không trưng dẫn được nhiều bằng chứng thuyết phục. Với con
số những người đồng tính lên đến hàng chục triệu hiện nay và trong tương lai có
thể sẽ nhiều hơn nữa nên không thể được qui cho ảnh hưởng di truyền. Riêng tại
Hoa Kỳ, theo The Williams Institute at the UCLA School of Law, a sexual
orientation law and public policy think tank, ước tính có tới 9 triệu người được
nhìn nhận như là những người đồng tính nam hoặc nữ, song tính hoặc chuyển giới.
Con số này vào khỏang 3.8% dân số của Hoa Kỳ. Do đó, nghiên cứu của Peter
Bearman và Hannah Bruckner thuộc Đại học Columbia và Yale, cho rằng yếu tố di
truyền chỉ là một trong những yếu tố của đồng tính cùng với những yếu tố khác
như ảnh hưởng văn hóa, xã hội và gia đình.
Ảnh hưởng của môi trường,
của xã hội, theo một số nhà xã hội và tâm lý học có liên quan đến việc định
hình phái tính của tuổi trẻ. Đặc biệt trong môi trường đô thị và khi các em bước
vào tuổi vị thành niên ở độ tuổi 14, tuổi bắt đầu nhận thức về hấp dẫn của giới
tính. Con trai nhiều hơn con gái. Nó cũng liên quan đến tình trạng đạo đức xã hội
trong các môi trường đông người khi mà ở đó quan niệm về luân lý bị lỏng lẻo,
phản ảnh triết lý đạo đức tương đối (Relativism). Theo triết lý sống này thì
“ai sao tôi vậy”, và đồng tính trở nên như một lối sống được chấp nhận vì có
nhiều người suy nghĩ và sống như vậy.
Có thể nói, đồng tính và
hôn nhân đồng tính là một hiện tượng của thời đại, và là một xu thế của nếp sống
xã hội đổi mới hiện nay. Theo các nhà nghiên cứu, những xã hội có xu hướng chấp
nhận đồng tính ở đó có nhiều cá nhân có khuynh hướng đồng tính hơn. Thí dụ tại
Hoa Kỳ, số phụ nữ có khuynh hướng đồng tính ngày càng gia tăng. Theo Toni
Meyer, con số đồng tính nam ở Mỹ đã gia tăng 18% kể từ năm 1994, trong khi đó,
con số đồng tính nữ tăng tới 157%. Lý do vì phong trào ủng hộ đồng tính lên
cao, ảnh hưởng mạnh mẽ trong sinh hoạt của xã hội. Năm 2004, Tòa Án Tối Cao
Massachusetts lần đầu tiên tái định nghĩa hôn nhân đối với hôn nhân đồng tính.
Và năm 2012 Tổng Thống Barak Obama đã chính thức can thiệp vào vấn đề hôn nhân
đồng tính và ủng hộ hoàn toàn việc tái định nghĩa hôn nhân bao gồm hai người
đàn ông hoặc hai người đàn bà.
Thực tế đã chứng minh rằng,
nhiều người đã có vợ, có chồng và con cái nhưng rồi do ảnh hưởng xã hội đã
tuyên bố mình là đồng tính và đi tìm lối sống đồng tính. Lizette Borreli viết
trên Newseek, ngày 3 tháng 10, 2017 qua chủ đề Transgender Surgery: Regret
Rates Highest in Male-to-Female Reassignment cho biết theo bác sỹ Miroslav
Djordjevic, bác sỹ chuyên khoa giải phẫu bộ phận sinh dục tại phòng mạch của
ông ở Belgrade, Serbia, thì con số những người đã giải phẫu chuyển giới hiện
nay đang có chiều hướng muốn được giải phẫu để trở lại giới tính cũ. Điều này
chứng minh rằng xu hướng xã hội và ảnh hưởng xã hội đã chi phối suy nghĩ của
thành phần chuyển giới.
Tóm lại, có thể kết luận
như Binnie Klein rằng đồng tính là sự thay đổi trong xu hướng tình dục, và được
sự chấp nhận của xã hội. Và theo Alan Sanders, ý nghĩ về đồng tính không phải
do yếu tố sinh học, mà đó là một quá trình ảnh hưởng từ xã hội.
CHA ĂN MẶN CON KHÁT NƯỚC
Theo thống kê của Journal
of Marriage and the Family, Heritage Foundation Backgrounder, Journal of the
American Academy of Child and Adolescent Psychiatry, University of Virginia,
con cái của những cha mẹ ly dị có mức độ 47% đổ vỡ trong hôn nhân.
Ngoài ra, con cái của những
phụ huynh nghiện rượu có nguy cơ trơ thành nghiện rượu cao gấp 4 lần so với con
cái của những phụ huynh không nghiện rượu.
Về phương diện hôn nhân, ảnh
hưởng của cha mẹ cũng đã để lại một dấu ấn trên đời sống tình yêu, tình dục, và
quan niệm sống của con cái. Điều này có thể liên quan đến quan niệm và lối sống
đồng tính của con cái sau này. Nhưng liệu đời sống hôn nhân và hôn nhân hạnh
phúc của cha mẹ có ảnh hưởng đến việc chọn lựa phái tính của con cái hay không?
Có nhiều khảo cứu thuộc cả hai phía thuận và chống đối. Để có một cái nhìn tổng
quát về đồng tính và chọn lựa đồng tính, sau đây là một số dữ liệu có giá trị
khảo cứu:
Yếu tố tâm lý
Nạn nhân của việc lạm dụng
tình dục, xâm phạm tiết hạnh, cũng là một yếu tố đưa đến đồng tính. Nghiên cứu
trên tạp chí Hiệp Hội Y Khoa Hoa Kỳ, trẻ vị thành niên bị lạm dụng tình dục, đặc
biệt là con trai, có khuynh hướng coi mình là đồng tính gấp 7 lần so với con
gái. 20% trong số những người đồng tính nữ là nạn nhân của những vụ lạm dụng tình
dục lúc còn nhỏ. Dary Bem cho rằng khi còn nhỏ, các em chứng kiến hành vi tình
dục đồng tính có thể gợi lên kích thích sinh lý, mà sau này sẽ chuyển thành sự
kích thích tình dục của những người đồng tính. Còn theo Peter Bearman, hành vi
giới tính trong thời thơ ấu và thiếu niên sẽ góp phần hình thành quan hệ đồng
tính ở tuổi trưởng thành.
Yếu
tố gia đình
Trong gia đình, thiếu sự
bao bọc của người cha, và sự gắn bó thân mật với mẹ là yếu tố định hình quan niệm
cũng như lối sống đồng tính ở nam giới. Với nữ giới, sự mất mát người mẹ ở tuổi
vị thành niên, là con út hoặc con gái duy nhất trong gia đình cũng có chiều hướng
gia tăng khả năng đồng tính. Trong gia đình, con cái của những cha mẹ ly thân,
ly dị, hoặc chết sớm sẽ có xu hướng đồng tính cao hơn so với con cái của những
cha mẹ có đời sống hôn nhân hạnh phúc.
Sigmund Freud và các nhà
tâm lý học khác xác nhận rằng sự hình thành xu hướng tình dục được cấu tạo do
nhiều yếu tố, trong đó có các ảnh hưởng quá khứ xảy ra trong thời thơ ấu. Tiến
sĩ tâm lý học người Tây Ban Nha, Enrique Rojas cho rằng 95% nguyên nhân dẫn tới
đồng tính là do các yếu tố của môi trường gia đình như thiếu vắng quan tâm của
cha, sự hung dữ của mẹ, hoặc bị lạm dụng tình dục trong lúc còn nhỏ.
HÔN NHÂN CHA MẸ VÀ TƯƠNG LAI CỦA CON CÁI
Ảnh hưởng gia đình bao gồm
những mối tương giao giữa cha mẹ và con cái, đặc biệt, giữa mối tương quan vợ
chồng trong đời sống hôn nhân của cha mẹ là một trong những yếu tố theo Freud,
Enrique Rojas, sẽ định hình và xây dựng đời sống phái tính của con cái sau này.
Trong thực tế, nhiều thiếu nữ không muốn lập gia đình vì nhìn thấy những cách đối
xử thiếu tôn trọng, thiếu ý thức và nhân văn của cha mình đối với mẹ mình. Cũng
tương tự, nhiều bạn nam không muốn liên hệ với phái nữ vì nhìn thấy trong gia đình
cách thức đối xử của mẹ đối với cha mình. Đó là chưa kể đến những lời than thở,
những bất mãn thường ngày giữa cha mẹ mà con cái nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy
như những nhân chứng của một đời sống bất hạnh. Trước con mắt chúng, hôn nhân của
cha mẹ là một ngục tù, và sống trong hôn nhân là sống trong hỏa ngục. Và trong
tâm tình ấy, ảnh hưởng xã hội, xu hướng thời thế sẽ dễ dàng khiến các em bị thu
hút vào suy nghĩ cũng như lối sống đồng tính.
Vậy phụ huynh muốn gì nơi
con cái, và trông mong gì ở tương lai con cái trong viễn ảnh một gia đình vợ chồng
được kết hợp bởi một người nam và một người nữ? Tốt hơn hết vẫn là sống theo lời
của Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Ngài: “Thầy đã làm gương để anh em noi theo mà
bắt chước” (Gioan 13:15). Con cái sẽ
theo gót chân cha mẹ không chỉ trong lãnh vực nghề nghiệp, sở thích, niềm tin,
nhưng quan trọng là trong đời sống gia đình với vai trò, trách nhiệm người chồng,
người vợ, người cha, người mẹ. Nếu chúng cảm nhận được tình yêu mà cha mẹ dành
cho nhau, hạnh phúc hôn nhân của cha mẹ bao phủ đời sống gia đình, đời sống các
con cái, chúng cũng sẽ đi theo con đường mà cha mẹ chúng đã đi. Dĩ nhiên, cũng
có những trường hợp một người sinh ra với bẩm sinh mang sẵn những yếu tố tâm
sinh lý của một người đồng tính. Trong trường hợp này, chúng ta phải tôn trọng,
yêu thương và nâng đỡ. Nhưng như những nhà nghiên cứu vừa được trích dẫn, thì
con số này cũng chỉ là những trường hợp ngoại lệ.
Tác giả: Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét