HỆ LỤY TÔN GIÁO
(Trầm
Thiên Thu)
[Bài
chủ đề báo ĐMHCG, số 377, tháng 01-2018]
Theo
ước tính, hiện nay trên thế giới có khoảng 500.000 tôn giáo đang tồn tại, Á
Châu chiếm đa số. Trong số hơn 7 tỉ người trên trái đất, có 85% là những người
có niềm tin tôn giáo. Nhưng có nhiều ý kiến cho rằng các cuộc xung đột trong thế
kỷ 21 này có thể là sự xung đột giữa các tôn giáo. Đó là mối quan ngại, và thực
tế này đang manh nha!
Trong
Tông Huấn “Giáo Hội tại Á Châu” (Ecclesia in Asia – ĐGH Gioan Phaolô II,
6-11-1999) cho biết: “Á Châu là nơi khai sinh của Ðức Giêsu và của Giáo Hội”.
Thánh GH Gioan Phaolô II đã nhận thấy Á Châu là một chân trời mới đầy hứa hẹn
cho một “mùa gặt các linh hồn mà Ngài thấy đã chín mùi và phong phú” cho sứ vụ
của Giáo Hội trong Ngàn Năm Thứ Ba (số 9). Tông Huấn này xác định: “Ðức Giêsu
đã sinh ra, sống, chết và phục sinh nơi Thánh địa, vùng đất bé nhỏ này ở Tây Á
đã trở nên một vùng đất đầy hứa hẹn và hy vọng cho tất cả nhân loại” (số 4). Á
Châu chính là “chiếc nôi của tôn giáo”. Thật kỳ lạ!
CHIẾC
NÔI TÔN GIÁO
Dân
số Á châu hiện nay là hơn 3 tỉ người, nghĩa là chiếm hơn nửa dân số thế giới.
Đó là một lục địa mênh mông, đồng thời cũng là quê hương của chính Ðức Kitô, thế
mà số người Công giáo chỉ có vỏn vẹn hơn 132 triệu tín hữu, tỷ lệ là 3,95%.
Michael
Inzlicht, nhà thần kinh học thuộc ĐH Toronto, Scarborough, người hướng dẫn cuộc
nghiên cứu về mối liên quan giữa tôn giáo và não bộ, cho biết: “Tôn giáo đưa ra
khung-biểu-diễn để hiểu biết thế giới. Nó cho bạn biết thời điểm hành động,
cách hành động, và những gì cần làm trong mỗi tình huống. Nó cung cấp chi tiết
kế họach về cách tương tác với thế giới”. Tôn giáo – và có thể khác hơn là hệ
thống niềm tin – làm vật đệm cho quyết định dự đoán khác.
Cuối
năm 2011, để phân tích kinh nghiệm về nỗ lực của tôn giáo đối với hạnh phúc,
người ta đã sử dụng các dữ liệu từ 3 đợt (2002-2003, 2004 và 2006) của tổ chức
Nghiên cứu Xã hội Âu châu (ESS – European Social Survey) đối với 114.019 cá
nhân ở 24 quốc gia.
Các
dữ liệu này cung cấp thông tin về đặc tính cá nhân như giới tính, tuổi tác, thu
nhập, sức khỏe tổng quát theo quan điểm cá nhân, tình trạng hôn nhân, hoạt động
chính, số con và trình độ học vấn, và những phương diện khác,… Dường như có mối
liên quan tích cực giữa mức độ tôn giáo ở một người đối với hạnh phúc: NHỮNG
NGƯỜI CÀNG SÙNG ĐẠO CÀNG
HẠNH PHÚC.
Chủ
nghĩa vô thần muốn loại bỏ tôn giáo, nhưng đó là sai lầm nghiêm trọng. Thật vậy,
chính họ cũng vẫn thắp nhang và vái lạy thì sao lại nói là mình vô thần? Vừa mặc
nhiên vừa mình nhiên, họ đã tự mâu thuẫn!
Tôn
giáo liên quan thế giới vô hình, liên quan các thần linh, đặc biệt là Thiên
Chúa – Đấng tạo tác muôn sự muôn loài. Con người vốn dĩ duy tâm, chắc chắn
không thể thiếu tôn giáo trong cuộc sống thường nhật.
Riêng
tại Việt Nam, tôn giáo khá đa dạng – gồm các nhánh Kitô giáo như Công giáo
Rôma, Tin Lành (Lutheran, Cơ Đốc phục lâm,…); các nhánh Phật giáo như Đại thừa,
Tiểu thừa, Hòa Hảo...; tôn giáo nội sinh như Đạo Cao Đài, và một số tôn giáo khác.
Cho tới nay, tín ngưỡng dân gian bản địa vẫn có ảnh hưởng nhất định trong cuộc
sống của người dân Việt Nam.
Có
những người Việt nhận mình là những người không tôn giáo, mặc dù thi thoảng họ
vẫn đến các địa điểm tôn giáo vào một vài dịp trong năm. Theo tác giả Trần Đình
Hượu, người Việt được cho là ít có tinh thần tôn giáo, các tôn giáo thường được
tập trung về phương diện thờ cúng, còn về giáo lý và tinh thần lại ít được quan
tâm. Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, toàn quốc
có 15.651.467 người xác nhận mình theo một tôn giáo nào đó. Cùng với điều đó,
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình sinh hoạt tôn giáo phổ biến, được
thực hành bởi đa số dân chúng.
Từ
xưa, Việt Nam đã có các hình thức thực hành tôn giáo đối với các đối tượng tự
nhiên. Các hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn
giáo thời ấy, mô tả nhiều về hình ảnh một loài chim – cụ thể là chim Lạc, khiến
các sử gia tin rằng chúng là đối tượng được người Việt xưa tin thờ. Ngoài ra,
con Rồng cũng xuất hiện nhiều trong các sản phẩm nghệ thuật và mỹ thuật Việt
Nam, phát sinh từ việc thờ cúng Lạc Long Quân – huyền thoại về một con người được
cho là cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các đối tượng tự nhiên khác
như động vật, núi, sông, biển,... cũng được người Việt tôn làm vị thần bảo vệ
và chúc phúc cho con người. Tôn giáo tại Việt Nam có mối liên hệ với nền văn
minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ, nhưng người Việt còn kết hợp yếu tố truyền thống
đạo đức của dân tộc mình vào đó để hình thành loại tôn giáo mang bản sắc riêng
biệt.
Thời
quân chủ tại Việt Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích, được xem là nền
tảng của chế độ khoa cử, nhiều văn miếu được xây dựng trong cả nước. Các tôn
giáo hiện diện lâu đời tại Việt Nam là Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo (gọi
chung là tam giáo). Tuy nhiên, Phật giáo có vai trò quan trọng trong các triều
đại như nhà Lý, nhà Trần và các chúa Nguyễn.
Sau
năm 1954, khi người cộng sản cầm quyền tại miền Bắc, vấn đề tâm linh bị coi là
đối tượng đấu tranh về tư tưởng, thậm chí là đấu tranh bằng ý thức hệ, thế nên
họ cố gắng bài trừ mê tín dị đoan đến mức mọi chuyện liên quan đến tâm linh đều
bị đả phá. Họ muốn xóa bỏ tất cả, mặc dù tín ngưỡng tôn giáo thuộc nhu cầu tâm
linh và là quyền cơ bản của con người – tự do tín ngưỡng. Ở miền Bắc, từ năm
1954 cho đến đầu những năm 1980 hầu như không tồn tại các hoạt động thực hành
tín ngưỡng nữa, nhưng tại miền Trung và miền Nam vẫn duy trì hoạt động đó. Việc
ngắt quãng trong một thời gian dài, từ 1954 đến đầu thập niên 1980 khiến cho hệ
thống lễ hội bị phá vỡ. Từ năm 1986 đến nay, gần 8.000 lễ hội đã được phục hồi
và hình thành các lễ hội mới, được quan tâm nhiều nhất là lễ hội dân gian.
Ông
Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu tôn giáo, nhận xét: “Dường như những
chính sách về tôn giáo nghiêm trọng và sai lầm trước đây, và cả hiện nay nữa,
đã tạo ra một quá trình sa mạc hóa về tâm linh ở Việt Nam, để giờ đây tâm hồn của
người Việt đã biến thành một bãi hoang có thể chấp nhận các loại bụi gai xương
rồng và không thể trồng được loại cây có hoa thơm, quả ngọt”. Theo ông, đó là
bài học về việc đừng tạo ra những sa mạc nhận thức như đã từng làm, vì không ai
khác, chính các thế hệ người Việt sau này sẽ phải gánh chịu hậu quả.
Tại
Việt Nam có 6 tôn giáo lớn là Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành,
và Hồi giáo. Trong số đó, Phật giáo có số tín đồ đông đảo nhất. Theo thống kê
dân số năm 2009, số tín đồ Phật giáo là 6.802.318 người. Còn theo số liệu thống
kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ đã quy y tam
bảo.
Công
giáo Rôma tới Việt Nam vào đầu thế kỷ 16, tại Nam Định (thời Nhà Lê trung
hưng), bởi những nhà truyền giáo Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, sau đó là người
Pháp, trước cả khi Việt Nam là thuộc địa của Pháp. Về sau, chính quyền Pháp
không khuyến khích người dân theo tôn giáo nào, nhưng họ bảo đảm quyền tự do
tôn giáo lần đầu tiên trên đất nước Việt Nam, nhất là Bắc Kỳ và Nam Kỳ – nơi chịu
sự bảo hộ của Pháp. Nhờ vậy Công giáo cũng như những tôn giáo khác đã thoát khỏi
thời kỳ bách hại lớn nhất dưới các triều đại phong kiến kể từ thế kỷ 16. Công
giáo lan truyền trong dân tại các tỉnh ven biển Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình,
Thanh Hóa, sau đó lan tới vùng châu thổ sông Hồng và các vùng đô thị. Theo thống
kê năm 2009, Việt Nam có khoảng 5.677.086 tín hữu Công giáo, GP Xuân Lộc (tỉnh
Đồng Nai) có nhiều tín hữu Công giáo nhất, với khoảng 800.000 tín hữu, và có
khoảng 6.000 nhà thờ tại Việt Nam. Công giáo được mệnh danh là “đạo yêu
thương”, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 & 16), và luật Chúa tóm
gọn trong hai điều: Mến Chúa và yêu người.
Cao
Đài (còn gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ) là một tôn giáo do Ngô Văn Chiêu, Cao Quỳnh
Cư và Phạm Công Tắc thành lập năm 1926, có trung tâm là Tòa Thánh Tây Ninh, thờ
cúng Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. Các tín đồ Cao Đài thi hành những giáo
điều như không sát sanh, sống lương thiện, hòa đồng, làm lành, lánh dữ, giúp đỡ
xung quanh, cầu nguyện, thờ cúng tổ tiên và thực hành tình yêu thương vạn loại
qua việc ăn chay. Mục tiêu tối thiểu của họ là đem hạnh phúc đến cho mọi người,
đưa mọi người về với Thượng Đế nơi Thiên Giới, và mục tiêu tối thượng là đưa vạn
loại thoát khỏi vòng luân hồi. Theo số liệu năm 2011, có 2,4 triệu tín đồ Cao
Đài trên cả nước, đông nhất tại Tây Ninh, và có khoảng 30.000 tín đồ sống tại Bắc
Mỹ, Âu Châu và Úc Châu.
Hòa
Hảo (Phật giáo Hòa Hảo) là một tôn giáo Việt Nam gắn chặt với truyền thống Phật
giáo, do Huỳnh Phú Sổ (gọi là Đức Huỳnh giáo chủ) thành lập năm 1939 tại làng
Hòa Hảo, quận Tân Châu (nay là thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang).
Đạo Hoà Hảo phát triển ở miền Tây Nam Bộ, kêu gọi mọi người sống hòa hợp, đánh
giá cao triết lý “Phật tại tâm”, khuyến khích nghi lễ thờ cúng đơn giản (chỉ có
hoa và nước sạch) và loại bỏ mê tín dị đoan. Những buổi lễ được tổ chức rất đơn
giản và khiêm tốn, không có ăn uống, hội hè. Lễ lộc, cưới hỏi hay ma chay không
cầu kỳ như thường thấy ở những tôn giáo khác. Đạo không có tu sĩ, không có tổ
chức giáo hội mà chỉ có một số chức sắc lo việc đạo và việc đời. Theo thống kê
năm 2009, có khoảng 1.433.252 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, chủ yếu tập trung ở miền
Tây Nam Bộ (đặc biệt là An Giang, nơi có nhiều tín đồ nhất – gần 1 triệu).
Tin
Lành được truyền vào Việt Nam năm 1911. Đầu tiên, tôn giáo này chỉ được phép hoạt
động tại các vùng do Pháp quản lý, các vùng khác bị cấm. Đến năm 1920, Tin Lành
mới được phép hoạt động trên khắp Việt Nam. Theo thống kê năm 2009, Tin Lành là
tôn giáo chính của nhiều dân tộc thiểu số, và số tín đồ chủ yếu tập trung ở khu
vực Tây Nguyên và Tây Bắc, nơi có nhiều tín đồ Tin Lành nhất là Đăk Lăk.
Hầu
hết tín đồ Hồi giáo và Hindu giáo tại Việt Nam là người Chăm. Người ta cho rằng
Hồi giáo đã được truyền vào Việt Nam đầu tiên là khoảng thế kỷ 10 và 11, trong
cộng đồng người Chăm. Theo thống kê năm 2009, tại Việt Nam có khoảng 75.268 tín
đồ Hồi giáo, chủ yếu ở Bình Thuận, Ninh Thuận, An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, và
Saigon, đông nhất là tại Ninh Thuận (hơn 25.000 tín đồ). Có hai phái Hồi giáo của
người Chăm: người Chăm ở Châu Đốc, Saigon, Tây Ninh và Đồng Nai theo Hồi giáo
Chính thống, còn người Chăm ở Bình Thuận và Ninh Thuận theo phái Chăm Bà Ni.
Một
tôn giáo chính khác của cộng đồng người Chăm là đạo Bà La Môn (hơn 56.000 tín đồ)
chủ yếu tập trung ở Ninh Thuận (hơn 40.000 tín đồ).
Ngoài
6 tôn giáo lớn vừa đề cập, Việt Nam còn có nhiều tôn giáo nhỏ khác được chính
quyền công nhận như: Tứ Ân Hiếu Nghĩa (hơn 41.000 tín đồ), Tịnh độ Cư sĩ Phật hội
Việt Nam (hơn 11.000 tín đồ), Bửu Sơn Kỳ Hương (hơn 10.000 tín đồ), Baha'I (khoảng
8.000 tín đồ), Minh Lý Đạo và Minh Sư Đạo.
Đồng
thời còn có vài tin ngưỡng và tôn giáo không chính thức như tín ngưỡng bản địa ở
Tây Nguyên và miền núi phía Bắc, Đạo Ông Trần tại Đảo Long Sơn (Bà Rịa – Vũng
Tàu); các tín ngưỡng phụ phổ biến như Đạo Mẫu, Đạo giáo, Nho giáo, thờ Thành
hoàng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên; Chính Thống giáo tại Việt Nam có đại diện
là giáo xứ Đức Mẹ Kazan (thuộc Giáo hội Chính thống Nga) ở Vũng Tàu, nơi có vài
trăm chuyên gia người Nga của Công ty Liên doanh Vietsovpetro. Các đại diện của
Bộ phận liên lạc các giáo xứ ở ngoại quốc của tòa thượng phụ Moskva thường
xuyên thăm giáo xứ này để tổ chức các thánh lễ theo lịch phụng vụ dịp Lễ Phục
Sinh và các thánh lễ tại nơi khác.
HỆ
LỤY TÔN GIÁO
Thống
kê cho thấy rằng số người Việt thực hiện việc thờ cúng tổ tiên chiếm tỷ lệ
trung bình là 98% dân số. Điều này chứng tỏ người Việt duy tâm lắm đấy, nghĩa
là tôn giáo rất quan trọng trong đời sống của họ!
Vì
nhu cầu tâm linh mà người ta tìm đến tôn giáo, vì có niềm tin tôn giáo mà nhiều
người bị bách hại, và họ tìm đường thoát thân bằng cách di tản để được sống tự
do – đặc biệt là tự do tôn giáo. Nhiều nơi trên thế giới đã và đang có những cuộc
di tản, tạo nên tình trạng di dân và người tỵ nạn. Riêng tại Việt Nam đã có cuộc
di cư năm 1954 và 1975, đó là lịch sử minh nhiên, đồng thời cũng có hệ lụy tất
yếu.
Hai
mươi năm là một thế hệ. Hai mươi năm không dài mà Việt Nam phải mang hai nỗi buồn
rười rượi. Đau lòng lắm, quê hương ơi! Với tâm tình đó, cố nhạc sĩ Phạm Duy đã
viết ca khúc “Năm Bốn, Bảy Lăm” (1954-1975) nói về tình trạng tỵ nạn của nhiều
người Việt: “Một ngày năm bốn cha bỏ quê xa, chốn đã chôn nhau cắt rốn bao
nhiêu đời. Một ngày năm bốn cha bỏ phương trời, một miền Bắc tối tăm mưa phùn
rơi... Một ngày bảy lăm con bỏ nước ra đi, hai mươi năm là hai lần ta biệt xứ.
Giờ cha lưu đày ở ngay trên đất ta, và giờ con lưu đày ở đây trên xứ lạ!... Một
ngày năm bốn xa mộ ông cha, với lũy tre xanh khóm chuối bên sau nhà. Một ngày
năm bốn cha phải chia lìa, cùng mảnh đất nóc gia cha làm ra... Một ngày bảy lăm
con bỏ hết giang sơn, hai mươi năm tình yêu người yêu cuộc sống. Giờ nơi nước
mình niềm đau thay nỗi vui, Saigon đã chết rồi phải mang tên xác người...”. Lời
ca da diết niềm đau như mũi dao cứ xoáy sâu vào lòng vậy. Buồn và đau lắm!
Nói
chung, dân tỵ nạn là những người muốn tránh khổ, thoát khổ, tức là họ quyết đi
tìm tự do, bình an và hạnh phúc ở một nơi khác. Nơi nào có tự do, bình an và hạnh
phúc thì họ tìm đến bằng mọi giá, và nơi đó trở thành quê hương của họ. Tuy
nhiên, có những người đã phải trả giá rất đắt vì họ gặp đủ thứ nguy hiểm, thậm
chí phải mất mạng trong cuộc chạy trốn đó. Quả thật, tình trạng tỵ nạn là cảnh
đáng sợ, vì kiếp tỵ nạn gian khổ lắm thôi!
Về
phương diện tâm linh, chúng ta không thể dùng danh từ tỵ nạn, nhưng chúng ta
cũng chẳng khác gì dân tỵ nạn – theo nghĩa phiến diện nào đó, bởi vì chúng ta
đang trên đường lữ hành trần gian đầy đau khổ, với hy vọng sẽ thoát cảnh “khổ
não trần ai” để về tới Bến Hạnh Phúc đích thực là Nước Trời, Quê Hương vĩnh cửu.
Xét về ý nghĩa đó, chúng ta có thể coi mình cũng đang là “dân tỵ nạn”. Khổ hết
sức! Khổ vô cùng! Khổ trên từng cây số! Khổ tận cùng bảng số! Thế nên chúng ta
luôn thao thức cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu thoát! Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài ngự
đến!” (Kh 22:20b).
Đúng
như vậy, nguy hiểm lúc nào cũng cận kề trên đường lữ hành trần gian, sơ sảy một
chút là “chết” ngay, vì thế mà Thánh Phêrô đã cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ
và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm
mồi cắn xé” (1 Pr 5:8).
Trong
Tân Ước, chúng ta không thấy đề cập vấn đề tỵ nạn, nhưng Cựu Ước có nhắc tới việc
tỵ nạn hai lần.
Sách
Sử Biên Niên đề cập nơi sinh sống của con cháu A-ha-ron: “Đây là nơi cư trú của
họ, theo ranh giới các trại dành cho họ: Nên người ta cho họ vùng Khép-rôn
trong đất Giu-đa, cùng với các đồng cỏ chung quanh. Đồng ruộng của thành ấy và
các thôn làng thì người ta cho ông Ca-lếp con ông Giơ-phun-ne. Nhưng người ta lại
cho con cháu ông A-ha-ron các thành tỵ nạn là Khép-rôn và Líp-na với các đồng cỏ,
Giát-tia, Ét-tơ-mô-a với các đồng cỏ, Khi-lết với các đồng cỏ, Đơ-via với các đồng
cỏ, A-san với các đồng cỏ, Bết Se-mét với các đồng cỏ. Còn chi tộc Ben-gia-min
thì người ta cho họ: Ghe-va với các đồng cỏ, A-le-mét với các đồng cỏ, A-na-tốt
với các đồng cỏ. Tất cả các thành của họ là mười ba, tính theo số các thị tộc của
họ” (1 Sbn 6:39-45).
Sách
Isaia nói tới vấn đề tỵ nạn trong lời sấm hạch tội Mô-áp: “Lòng tôi kêu gào
bênh vực Mô-áp; những người dân tỵ nạn đã đến tận Xô-a và Éc-lát Sơ-li-si-gia.
Thật vậy, tại dốc Lu-khít, họ vừa trèo vừa khóc; quả thế, trên đường
Khô-rô-na-gim, họ thốt lên những tiếng kêu than thảm bại” (Is 15:5).
Thế
giới có nhiều trại tỵ nạn, nhiều dạng tỵ nạn, nhiều mức độ tỵ nạn, nhưng luôn
có một mẫu số chung là KHỔ. Đành rằng “ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt
6:34), nhưng cái khổ của kiếp tỵ nạn thì chỉ hơn kiếp tù tội là có tự do. Chẳng
nơi nào có thể để chúng ta an tâm nếu “chẳng may” là dân tỵ nạn.
Chỉ
có một “trại tỵ nạn” đầy đủ “tiện nghi” nhất, thậm chí còn sướng hơn sống tại
nhà mình, đó là Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thật vậy, chính Ngài đã mời gọi mọi người,
nhất là những người đau khổ: “Hỡi những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến
cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Chúa Giêsu là nơi để
chúng ta có thể “tỵ nạn” an toàn nhất, vì chúng ta không chỉ được sống mà còn sống
dồi dào (x. Ga 10:10).
Ước
gì mỗi chúng ta biết lánh nạn trần gian để an tâm tỵ nạn nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu,
nơi đó có Nguồn Nước và Máu biến đổi chúng ta, để chúng ta có thể nên thánh
theo Tôn Ý của Chúa Giêsu: “Hãy hoàn thiện như Chúa Cha trên trời” (Mt 5:48).
Hãy mau ngụp lặn trong Đại Dương Lòng Chúa Thương Xót, đừng chần chừ nữa, vì thời
gian sắp hết, nghĩa là giờ thương xót của Thiên Chúa gần hết rồi!
Khi
tỵ nạn trần gian, chắc hẳn chúng ta không thể thiếu Người Mẹ, vì có Mẹ là có
bình an – bình an ngay trong cảnh khổ. Trong Kinh Cầu Đức Bà, chúng ta tha thiết
cầu xin: “NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN – Cầu Cho Chúng Con!”. Đức Mẹ thông ban những
ơn cần thiết trong cuộc sống trần gian, bởi vì Mẹ là Thánh Mẫu của Thiên Chúa
và cũng là Nữ Vương Hòa Bình.
Trong
đời thường, ngày khởi đầu công việc luôn được người ta coi trọng. Ngày khởi đầu
càng quan trọng hơn khi ngày đó là Ngày Đầu Năm. Do đó, ngày 1 tháng 1 là ngày
rất đặc biệt đối với thế giới, cả đạo và đời, vì đó là ngày khởi đầu năm mới. Với
người Âu Tây, đó là ngày Tết; với quốc tế, đó là ngày Hòa bình Thế giới; với
người Công giáo, đó là ngày lễ Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta mới vừa mừng lễ Giáng
sinh để tôn vinh Con Thiên Chúa, liền sau đó lại tiếp tục mừng lễ Mẹ Thiên Chúa
để tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Giáo hội tạo một nối kết tuyệt vời để đề cao Tình Mẫu
Tử!
Không
biết Thiên Chúa có “tiền định” hay không mà các ngôn ngữ đều mở miệng gọi Mẹ bằng
âm bật mở đầu là mẫu tự M. Chẳng hạn cách gọi người sinh ra mình là Mẹ hoặc Má
(tiếng Việt), Mother (Mom, Mum – tiếng Anh), Mère (Maman – tiếng Pháp), Mutter
(Mumie – tiếng Đức), Madre (Mamá – tiếng Tây Ban Nha), Madre (Mamma – tiếng Ý),
Moeder (Mummie – tiếng Hà Lan),… Nhưng khi gọi Cha thì các nước không dùng
chung âm mở đầu, mỗi nước mỗi khác. Phải chăng đây là “đặc cách” mà Thiên Chúa
đã dành cho Đức Mẹ, Mẹ của những người Mẹ, và tất cả những phụ nữ làm Mẹ?
Nói
đến mẹ thì luôn liên quan con. Tình Mẫu Tử có gì đó rất kỳ diệu, hầu như chúng
ta không thể hiểu hết. Dù người con tật nguyền, không đẹp, thậm chí là hư hỏng,
phản bội, nhưng vì “nước mắt luôn chảy xuôi” nên người Mẹ vẫn sẵn sàng tha thứ
và vẫn yêu thương hết lòng. Người bàng quan có thể trách người Mẹ là nhu nhược,
là sợ sệt, nhưng ai đã làm Mẹ mới khả dĩ hiểu thấu. Thế mới là Tình MẫuTử đích
thực – trong đó Tình Phụ Tử đích thực cũng được “hiểu ngầm”. Không thể chỉ kính
trọng Tình Mẹ mà “coi nhẹ” Tình Cha, vì người Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình
yêu và hạnh phúc; người Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh.
Hình
như chữ T luôn có gì đó khá đặc biệt, tạo nên chuỗi liên kết kỳ diệu trong cuộc
sống của mỗi chúng ta, nhất là các Kitô hữu: Tôn giáo – Tâm linh – Tình yêu –
Thanh bình (hòa bình, bình an, an bình).
Cùng
với cố NS Hải Linh (1920-1988), chúng ta cùng xưng tụng Đức Mẹ qua bài Thánh ca
“Nữ Vương Hòa Bình” (1959), ca từ nói lên tâm tình thảo kính của người Việt được
hòa quyện vào giai điệu du dương: “Kính mừng Nữ vương, Nữ vương Hòa bình, Nữ
vương Hòa bình. Đây bao tâm hồn thao thức, dân con đất Việt nao nức, cất tiếng
ca mừng vui: Kính chào Nữ vương Hòa bình. Tung hô Mẹ Maria! Tung hô Mẹ đầy ơn
phúc! Mẹ là sáng khắp đất nước bao la! Tung hô Mẹ Maria! Tung hô Mẹ đầy ơn
phúc! Đem nguồn sống an vui chan hòa”.
Lạy
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giải thoát chúng con khỏi cảnh đời lầm
than, xin ban bình an cho chúng con, xin cho chúng con được hưởng nền hòa bình
và tự do đích thực. Xin Thánh Mẫu Thiên Chúa nguyện giúp cầu thay cho chúng
con, đặc biệt là dân con Nước Việt. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu,
Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét