CHỜ ĐỢI
August
05, 2019- Trầm Thiên Thu
Chờ đợi là điều không thoải
mái chút nào. Khoảng “chờ đợi” (hoặc đợi chờ, mong chờ, trông đợi, ngóng chờ,...)
cũng có nhiều phiền phức chứ không hề đơn giản – bởi vì sống trong “khoảng” ấy
cũng giống như ở giữa “chợ đời” vậy. Nhiêu khê lắm!
Nhà phát minh “siêu đẳng”
Thomas Edison (1847-1931, Mỹ) nói: “Tất cả mọi thứ sẽ đến với người biết hối hả
trong khi chờ đợi. Tôi chưa thất bại, mà chỉ là tôi đã tìm ra mười ngàn cách
không hoạt động. Thiên tài là 1% cảm hứng và 99% mồ hôi”. Văn sĩ Alexandre
Dumas (1802-1870, Pháp) nói: “Tất cả sự khôn ngoan của con người được tóm gọn
trong hai điều: chờ đợi và hy vọng”. Có hy vọng là có mọi thứ.
Còn chờ đợi là còn hy vọng,
mà hy vọng chính là Đức Cậy – một trong ba nhân đức đối thần. Chắc hẳn rằng ai
cũng đã và đang có những khoảng chờ đợi – dù chung hay riêng, lâu hay mau, chờ
đợi ai đó hoặc điều gì đó. Đó là miền sa mạc của tâm hồn. Khoảng chờ đợi nào
cũng đều có nỗi trăn trở đặc thù, dù “khoảng” đó rộng hay hẹp, và có tính liên
kết: có TIN TƯỞNG mới CHỜ ĐỢI, mà đã chờ đợi thì phải SẴN SÀNG. Chính Chúa
Giêsu cũng đã có nỗi chờ đợi cháy bỏng nên Ngài phải thốt lên: “Tôi khát” (Ga
19:28). Ngài khát tình mến của các linh hồn, của mỗi chúng ta.
Thật vậy, trong một lần
tham dự Thánh lễ, Thánh Faustina đã thị kiến Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thập
Giá, và nghe thấy tiếng kêu than phát ra từ Thánh Tâm Chúa: “Ta khát. Ta khao
khát cứu độ các linh hồn. Hỡi ái nữ của Ta, hãy giúp Ta cứu các linh hồn. Hãy kết
hiệp những nỗi đau khổ của con với Cuộc Khổ Nạn của Ta và dâng mọi đau khổ lên
Chúa Cha để cứu các tội nhân” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 1032). Thế nhưng nhân
loại vẫn hờ hững và lạnh nhạt với Ngài lắm. Có lần Chúa Giêsu đã đặt vấn đề:
“Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”
(Lc 18:8).
Chúng ta càng cứng lòng
thì khoảng chờ đợi của Chúa Giêsu càng lớn. Thật đáng quan ngại về lời của
Thánh Phêrô: “Nếu người công chính còn khó được cứu độ, thì người vô đạo, kẻ tội
lỗi sẽ ở đâu?” (1 Pr 4:18). Khó lắm, do đó mà phải cố gắng không ngừng, không
thể cứ “tỉnh bơ” hoặc “chờ sung rụng”, tới đâu hay tới đó. Phải thực sự SỐNG ĐẠO
chứ không chỉ GIỮ ĐẠO. Sống đạo thì phải phải tích cực chứ không thể “mơ màng”
rồi “yêu sách” với Chúa đủ thứ. Cái khó đó không phải Thiên Chúa “hạn chế” ơn cứu
độ, mà vì chúng ta chưa thực sự chấp nhận Thiên Chúa là cứu cánh tối hậu. Chắc
hẳn cũng cần tái xác tín để biết mình đang làm gì và đi hướng nào.
Là tín nhân, ai cũng miệt
mài chờ ngày đợi đêm – chờ đợi được yêu Chúa hết lòng, được cứu độ, và được tận
hưởng vĩnh phúc trường sinh trên Thiên Quốc – nơi Chúa Giêsu hằng chờ đợi những
người thực sự yêu mến Ngài. Sách Khôn Ngoan cho biết: “Đêm ấy đã được báo trước
cho cha ông chúng con, để khi biết chắc lời hứa mình tin là lời hứa nào các
ngài thêm can đảm. Dân Chúa đã trông đợi đêm ấy như đêm cứu thoát người chính
trực và tiêu diệt kẻ địch thù” (Kn 18:6-7). Thánh Vịnh gia so sánh nỗi khao
khát Chúa bằng hình ảnh người lính canh mong đợi hừng đông (Tv 130:6).
Cái gì cũng có cái giá nhất
định, sung có rụng vô miệng thì cũng vẫn phải nhai và nuốt. Sách Khôn Ngoan cho
biết thêm: “Chúa dùng hình phạt giáng xuống đối phương để làm cho chúng con được
rạng rỡ và kêu gọi chúng con đến với Ngài. Con lành, cháu thánh của những người
lương thiện âm thầm dâng lễ tế trong nhà. Họ đồng tâm nhất trí về luật sau đây
của Thiên Chúa, là trong dân thánh, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chia. Và
ngay từ bấy giờ, họ đã xướng lên những bài ca do cha ông truyền lại” (Kn 18:8-9).
Không thể mong chờ đợi bằng động thái thụ động, mà phải tích cực hành động cụ
thể để chứng tỏ tha thiết chờ đợi và thánh hóa nỗi niềm đó, nhờ vậy và với đức
tin vào Đức Giêsu Kitô, ai đã hết lòng chờ đợi sẽ được công chính hóa (x. Gl
2:16).
Thật hạnh phúc khi được
nên công chính. Thánh Vịnh gia kêu gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng
Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen” (Tv 33:1). Tại sao? Bởi vì người
công chính là người thuộc về Chúa: “Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa
Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp” (Tv 33:12).
Những người hết lòng kính
sợ Chúa và trông cậy vào lòng Chúa yêu thương thì luôn được Ngài để mắt trông
nom, được cứu khỏi tay thần chết và được nuôi sống trong buổi cơ hàn (Tv
33:18-19). Chắc chắn chúng ta phải chứng tỏ được sự thật minh nhiên này: “Tâm hồn
chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì. Xin đổ tình thương xuống
chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:20). Thiên
Chúa rất vui có những người như vậy, và họ thực sự là người diễm phúc lắm.
Đức tin quan trọng vì là
một mối phúc: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Và Thánh
Phaolô xác định: “Đức tin là BẢO ĐẢM cho những điều ta hy vọng, là BẰNG CHỨNG
cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa
chứng giám” (Dt 11:1-2). Vì TIN mà CẬY (trông) – tức là hy vọng, và cũng vì TIN
mà YÊU (mến). Đó là bộ ba quan yếu cho đời sống tâm linh, gọi là ba nhân đức đối
thần (nhân đức thần học). Mối liên kết rất lô-gích và chặt chẽ, giống như “chiếc
kiềng ba chân” vững vàng (theo cách nói của người Việt).
Về mối liên quan giữa đức
tin và sự công chính, Thánh Phaolô dẫn chứng: “Nhờ đức tin, ông Ápraham đã vâng
nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp,
và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất
Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông Isaac và ông
Giacóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành
có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. Nhờ đức tin, cả bà Sara vốn
hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì
bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 11:8-11). Đó là những người có Đức
Tin chân chính, thuần túy và tuyệt đối. Tin tưởng chứ không ảo tưởng. Thật vậy,
TIN được Chúa yêu thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG được Chúa yêu thì lại là
kiêu ngạo. Ranh giới rất mong manh, vì vậy mà phải luôn thận trọng. Đúng là “cẩn
tắc vô ưu”, tiền nhân dạy chí lý.
Và rồi Thánh Phaolô còn
giải thích thêm: “Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà
đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được. Tất
cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều
Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng
mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. Những người nói như vậy cho thấy
là họ đang đi tìm một quê hương. Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình
đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. Nhưng thực ra các ngài mong ước một
quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không
hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn
bị một thành cho các ngài” (Dt 11:12-16). Cách nói có vẻ “dài hơi” một chút,
nhưng cần phải vậy để chúng ta có thể hiểu rõ, không còn mơ hồ trên hành trình
Đức Tin trong cuộc trần ai này.
Chưa hết, Thánh Phaolô tiếp
tục dẫn chứng: “Nhờ đức tin, khi bị thử thách, ông Ápraham đã hiến tế Isaac; dù
đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. Về người con này, Thiên
Chúa đã phán bảo: Chính do Isaac mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Quả thật,
ông Ápraham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc,
ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng” (Dt 11:17-19). Vì tin vô điều
kiện, tin đến mức sẵn sàng hy sinh chính đứa con yêu của mình, ông Ápraham trở
thành tổ phụ của những người tin – tín nhân hoặc tín hữu. Đó là niềm tín thác
hoàn toàn vào Thiên Chúa, tuyệt đối tín thác nơi Lòng Thương Xót của Ngài.
Chỉ một mình Thiên Chúa
là Đấng chí nhân và chí thiện, là Thiên Chúa duy nhất, Ngài chỉ muốn chúng ta
được hưởng những điều tốt lành của Ngài. Nhưng để được vậy thì chúng ta phải hết
lòng tín thác và yêu mến Ngài, cũng là để được Ngài hết mực yêu thương, như
chính Chúa Giêsu đã từng động viên và nhắn nhủ: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ,
vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12:32). Chúa Cha
đã yêu thương trao ban, nhưng có được thừa hưởng hay không còn tùy thuộc vào
cách sống của chúng ta.
Với nỗi niềm mong mỏi,
Chúa Giêsu đã căn dặn: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những
túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ
trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu thì
lòng anh em ở đó” (Lc 12:33-34 ≈ Mt 6:19-21). Đó là lời khuyên cho mọi người,
không dành riêng cho bất cứ ai. Tài sản có thể theo nghĩa đen – như Thánh
Phanxicô Assisi đã áp dụng sát nghĩa, và cũng có thể theo nghĩa bóng – khó nhất
là “cái tôi”, loại tài sản “quý” này ai cũng có. Tương tự, một lần khác Chúa
Giêsu cũng đã so sánh: “Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó” (Mt 24:28; Lc 17:37).
Rất thực tế, chẳng có gì khó hiểu.
Dùng cách nói cụ thể,
Chúa Giêsu xác định: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm
như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở
ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ.
Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người
mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức
như vậy, thì thật là phúc cho họ. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ
nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy,
hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Lc
12:35-40). Ngài không có ý chơi trò ú tim, hù dọa hoặc “gài bẫy” chúng ta, mà
Ngài muốn như vậy để công trạng của chúng ta được tăng lên. Khi chờ đợi thì đâu
ai biết điều gì đó có xảy đến hay không, hoặc người đó có đến hay không. Nếu có
hẹn trước thì miễn bàn, chẳng có gì thú vị. Vả lại, thời điểm đó chỉ có Chúa
Cha biết mà thôi (Mt 24:36; Mc 13:32).
Nghe Chúa Giêsu nói vậy,
ông Phêrô thắc mắc: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả
mọi người?” (Lc 12:41). Xem chừng Phêrô nhà ta chân chất thật thà quá cỡ thợ mộc,
cứ như trẻ em hồn nhiên ngây ngô vậy. Chúa Giêsu nói: “Vậy thì ai là người quản
gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp
phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như
vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên
coi sóc tất cả tài sản của mình. Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: ‘Chủ ta
còn lâu mới về’, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của
tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ
loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín” (Lc 12:43-46). Có
thể chúng ta không đến nỗi “chè chén say sưa”, “chén thù chén tạc” hoặc “chén
chú chén anh”, nhưng cách sống của chúng ta đã “tố giác” như vậy: Còn trẻ, còn
khỏe, còn thở, ... chưa chết đâu mà lo. Nhưng người Việt có câu cảnh báo: “Nước
đến chân mới nhảy”. Thế thì thua thật!
Đúng vậy, thế thì tiêu!
Chúa Giêsu thẳng thắn nói: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà KHÔNG chuẩn bị sẵn
sàng, hoặc KHÔNG làm theo ý chủ thì sẽ BỊ đòn nhiều. Còn kẻ KHÔNG biết ý chủ mà
làm những chuyện đáng phạt thì sẽ BỊ đòn ít” (Lc 12:47-48a). Cái sự “không biết”
ở đây không phải là “giả nai” rồi tìm cách biện hộ, mà là chủ ý, cứng lòng, cố
chấp.
Cuối cùng, Chúa Giêsu nói
một câu khiến chúng ta phải giật mình: “Ai đã ĐƯỢC CHO nhiều thì sẽ BỊ ĐÒI nhiều,
và ai ĐƯỢC GIAO PHÓ nhiều thì sẽ BỊ ĐÒI HỎI nhiều hơn” (Lc 12:48b). Đó là luật
công bằng, bởi vì Thiên Chúa rất mực công minh chính trực (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br
2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7),
không thiên vị bất kỳ ai (Đnl 10:17-18; Hc 35:12; Lc 20:21; Cv 10:34; Rm 2:11;
Gl 2:6; Ep 6:9).
Lạy Thánh Phụ chí thánh chí lành, xin ban ơn giúp chúng con luôn
tích cực sống đức tin trong thời gian chờ đợi Đức Giêsu Kitô tái lâm, dù lâu
hay mau, đồng thời cũng biết kiên trì và kiên cường trong mọi hoàn cảnh. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét