CÁI TRƯỚC RƯỚC CÁI SAU
Con Chúa Biến Hình Trên Núi Thánh
Tín Nhân Thay Đổi Giữa Gian Trần
Trong cơn đại dịch Corona
hiện nay – năm Con Chuột Chù 2020, con virus bé nhỏ đã khiến người ta hoảng loạn
chỉ vì mất niềm tin hoặc không muốn tin vào Thiên Chúa. Chỉ tìm hạnh phúc đời
này (thỏa mãn “cái tôi” để được sung sướng thể xác) nên người ta hoàn toàn thất
vọng. Nếu nhận ra “khoảng trống” trong tinh thần như vậy mà nhận ra Thiên Chúa
quyền linh thì thật là hạnh phúc. Nếu không nhận ra Ngài thì thật bất hạnh. Đã
và đang có những người tìm mọi cách trục lợi để sướng cái thân mình, bất chấp
đau khổ của người khác. Chắc chắn những kẻ tà tâm như vậy không thể nào có hạnh
phúc đích thực – dù chỉ là tạm thời. Nỗi đau tinh thần mới thực sự đáng sợ.
Cuộc sống luôn có những hệ
lụy tất yếu – có loại có thể lý giải, có loại không thể lý giải theo lý trí
phàm nhân. Người Việt vẫn thường nói: “Đầu xuôi, đuôi lọt.” Tất nhiên chỉ thường
xuyên chứ không luôn luôn như vậy. Theo kiểu “trước thế nào sau cũng tương tự”
thì kết quả có thể tốt và lành, hoặc hậu quả có thể xấu và dở.
Giả sử cuộc đời này không
là “bể khổ trần ai” thì chắc chắn sẽ nhàm chán, và rồi con người càng dễ hư
thân – sướng quá hóa rồ! Nhờ đau khổ mà người ta mới biết quý hạnh phúc mà cố gắng
vươn lên. Ấy vậy mà vẫn thấy có những con người bất chấp, xả láng, ngang ngược,
không sợ gì, dám làm những chuyện tày trời chỉ vì “cái tôi” quá lớn với thói
ích kỷ và kiêu ngạo.
Được làm người ở trên đời,
dù giàu hay nghèo, sang hay hèn, cao hay thấp, lớn hay nhỏ, nam hay nữ,… chắc
chắn ai cũng mưu cầu hạnh phúc – một quyền cơ bản của con người và mơ ước chính
đáng. Thật vậy, hạnh phúc là niềm mơ ước cháy bỏng suốt đời của bất kỳ ai. Tuy
nhiên, hạnh phúc đa dạng với nhiều mức độ. Hạnh phúc ở gần chứ không xa, nhưng
hạnh phúc cũng dễ khiến người ta ảo tưởng nếu đòi hỏi thái quá. Cũng như tình
yêu, chẳng ai có thể định nghĩa chính xác thế nào là hạnh phúc. Tất cả chỉ là
tương đối – tương đối tuyệt đối và tuyệt đối tương đối.
Thế gian là cõi tạm, thế
nên chẳng có gì vĩnh cửu, ngay cả những gì chúng ta có cũng không là của mình.
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc cao cấp của con người khi được thỏa mãn một
nhu cầu nào đó, nhưng vẫn không vĩnh viễn. Hạnh phúc mang tính nhân bản sâu sắc
và thường chịu tác động của lý trí, là cảm giác thoải mái khi đạt được một giá
trị, một mục đích, một kết quả... nhưng điểm khác nhau nằm ở tính hữu hình hay
vô hình của giá trị, mục đích, kết quả đạt được về nhiều lĩnh vực: tình yêu,
thành công, nổi tiếng, giàu có, thỏa mãn,... Hạnh phúc và sung sướng có nghĩa gần
giống nhau, hạnh phúc hiểu theo nghĩa tinh thần, trừu tượng; sung sướng hiểu
theo nghĩa vật chất, cụ thể.
Tất nhiên ai cũng phải đi
tìm, nếu muốn tận hưởng hạnh phúc. Đi tìm hạnh phúc không phải là sẽ “nhặt” được
nó như nhặt được một vật thể, cũng không thể ngồi chờ sung rụng, mà phải chủ động
“tạo” ra nó. Nghĩa là chấp nhận với những gì mình có hiện tại thì sẽ có hạnh
phúc. Thế nhưng không hề dễ thực hiện được động thái “chấp nhận” như vậy. Biết
đủ thì vẫn đủ, đòi hỏi thì chẳng bao giờ đủ!
Sống vì người khác là một
cách sống hạnh phúc. Chúa Giêsu gọi là phục vụ – từ bỏ chính mình, dám quên
mình, can đảm dấn thân. Người ta có câu nói đơn giản mà chí lý mang tính nhân bản:
“Người đi trước rước người đi sau.” Hạnh phúc đơn giản chỉ thế thôi.
1. PHÍA TRƯỚC
Người ta có kinh nghiệm
hay: “Nói trước bước không qua.” Và người ta cũng duy tâm thế này: “Mưu sự tại
nhân, thành sự tại thiên.” Chắc chắn vậy thôi. Nói mộc mạc bình dân là “mình
tính không bằng trời tính.” Có đau khổ mới biết thế nào là hạnh phúc, có bị tù
đày rồi mới biết tự do rất giá trị. Người kiên trì chịu gian nan vất vả mới nên
người, thành nhân tài. Chính đau khổ là “chất xúc tác” cho những tác phẩm giá
trị. Càng dày kinh nghiệm thì tác giả càng có được những tác phẩm hay. Những
người giỏi đều là những người đã từng vật lộn với cuộc sống khó khăn vô cùng.
Giàu có và sung sướng không tạo vĩ nhân: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả –
Anh hùng hào kiệt có hơn ai?” (chí sĩ Phan Bội Châu). Khổ luyện là mẫu số
chung. Không khốn khổ khó khôn khéo.
Ngày xưa, ông Áp-ram được
lệnh của Đức Chúa: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất
Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho
ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc
lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ
nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.” (St 12:1-3)
Một lời hứa tuyệt vời!
Thế nhưng không phải là
điều dễ dàng, mà phải giằng co. Thật vậy, đang an cư lạc nghiệp, đùng một cái
phải ra đi, nếu đức tin không mạnh mẽ thì liệu có dám ra đi? Ba lần dời nhà bằng
một lần cháy nhà. Chắc chắn là rất khó ra đi, vì giằng co dữ dội và cần phải
can đảm mà dứt khoát ngay. Cũng vẫn khó ra đi dù biết rõ nơi đến như thế nào –
phải ra đi vì đất quy hoạch, bị giải tỏa, có nguy cơ bão lũ hoặc động đất,… huống
chi ra đi mà không biết nơi đó ra sao, tương lai thế nào. Vậy mà “ông Áp-ram ra
đi như Đức Chúa đã phán với ông.” (St 12:4a) Không chỉ có vậy, khi rời Kha-ran,
“ông Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi” (St 12:4b) chứ đâu còn trẻ trung gì nữa. Quả
thật, đức tin của ông lớn quá! Cũng vì thế, ông được đổi tên Áp-ram thành
Áp-ra-ham, nghĩa là “người cha vĩ đại của muôn dân tộc.” (Hc 44:19) Đức tin vô
cùng quan trọng trong cuộc sống, đặc biệt là đời sống tâm linh. Có đức tin vững
vàng, người ta rất thanh thản, không bị giằng co, và chắc chắn Thiên Chúa “chẳng
để chính nhân phải nghiêng ngửa bao giờ.” (Tv 55:23)
Có lệnh thì làm ngay, ông
Áp-ram làm theo hướng dẫn của Thiên Chúa: “Đem theo vợ là bà Xa-rai, cháu là
ông Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại
Kha-ran. Họ ra đi về phía đất Ca-na-an và đã tới đất đó.” (St 12:5) Ông Áp-ram
ra đi với niềm tín thác vào Thiên Chúa quan phòng, đồng thời ông còn vâng lời
tuyệt đối. Kinh Thánh xác định: “Vâng lời trọng hơn của lễ.” (1 Sm 15:22; Tv
50:8-9; Tv 51:18) Vì vâng lời vô điều kiện, ông an tâm và vui vẻ – tức là ông
thực sự hạnh phúc. Niềm hạnh phúc của người biết tín thác vào Thiên Chúa thì
miên man và lâng lâng khó tả, không gì có thể “ngăn cản” sự sung sướng của con
người đó.
Kinh Thánh cho thấy rằng
Thiên Chúa đã hứa gì thì luôn chắc chắn: “Lời đã hứa, Ngài giữ vẹn toàn, bởi vì
Ngài vẫn luôn công chính.” (Nkm 9:8) Cuộc sống cũng chứng tỏ điều đó qua kinh
nghiệm sống của chúng ta. Thiên Chúa luôn giữ đúng lời, vì đó là luật, Ngài làm
ra luật nên Ngài tôn trọng luật, như Chúa Giêsu nói: “Trời đất qua đi còn dễ
hơn là một cái phết của Lề Luật rụng mất.” (Lc 16:17) Thánh Vịnh gia cũng xác
nhận: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin.
Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất.”
(Tv 33:4-5) Thiên Chúa tốt lành vĩnh hằng, bất biến.
Vốn dĩ là tình yêu và
giàu lòng thương xót, Thiên Chúa luôn quan tâm thụ tạo mà Ngài đã tác tạo nên
giống hình ảnh Ngài: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy
vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi
cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì.” (Tv
33:18-20) Với niềm thành tín, Thánh Vịnh gia xác định và bộc bạch: “Vâng, có
Người, chúng tôi mừng rỡ, vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh.” (Tv 33:21) Thật vậy,
nếu không có Ngài thì mọi loài đều biến thành hư vô ngay lập tức. Kinh Thánh
cho biết: “Kẻ tế thần khác ngoài Đức Chúa, sẽ bị Đức Chúa loại trừ.” (Xh 22:19)
Chính Thiên Chúa cũng đã
cảnh báo thẳng thắn: “Những kẻ coi trọng Ta thì Ta coi trọng, còn những kẻ
khinh dể Ta thì bị khinh thường.” (1 Sm 2:30) Chắc chắn mọi kiêu nhân đều bị
Thiên Chúa hạ bệ. (Hc 1:30; Hc 10:14; Is 23:9; Đn 4:34; Lc 1:52) Thật vậy, gieo
gì thì gặt nấy, “Gieo gió thì phải gặt bão.” (Hs 8:7) Bởi vì “Thiên Chúa không
để cho người ta nhạo báng đâu!” (Gl 6:7) Đây là vài trường hợp cụ thể:
[1] Chàng ca sĩ John
Lennon trong ban nhạc The Beatles (Anh) đã trả lời báo chí trong một cuộc phỏng
vấn: “Đạo của Chúa Giêsu đã đến ngày cuối cùng, nó sẽ biến mất. Tôi chẳng cần
bàn cãi về vấn đề này mà chắc chắn như vậy! Chúa Giêsu thì tốt, nhưng những lời
dạy của Ngài quá đơn giản. Giờ chúng tôi nổi tiếng hơn Ngài nhiều.” Và rồi năm
1980, anh ta bị bắn chết bằng 6 phát súng của một fan cuồng.
[2] Tổng thống Tancredo
Neves (Brazil) nói: “Nếu có 500 phiếu ủng hộ tôi thì dù Thiên Chúa có muốn xóa
bỏ chức tổng thống của tôi cũng không thể!” Vâng, Ngài không bỏ chi hết, và ông
đã đắc cử tổng thống. Thế nhưng ông bị bệnh và chết trước khi đăng quang năm
1985.
[3] Kỹ sư Thomas Andrew,
người Mỹ, đã thiết kế con tàu Titanic, hiên ngang nói với phóng viên: “Nó an
toàn đến nỗi Thiên Chúa cũng không thể nhấn chìm nó được!” Tuy nhiên, Titanic
đã va vào tảng băng và chìm xuống đáy Đại Tây Dương vào giữa đêm khuya, trung
tuần tháng 4-1912.
[4] Năm 2005, tại
Campinas ở Brazil, một nhóm bạn trẻ say xỉn đi đón một cô gái. Người mẹ cầm tay
cô dắt ra tận nơi vì lo lắng khi thấy họ say xỉn mà lái xe, bà nói: “Cầu xin
Chúa đi với con và gìn giữ con.” Cô gái nói: “Nếu Chúa muốn đi cùng thì phải ngồi
trong cốp xe chứ trong này chật rồi!” Vài tiếng sau, truyền hình đưa tin về một
vụ tai nạn nghiêm trọng, chiếc xe bị biến dạng hoàn toàn, trong đó có nhóm bạn
trẻ kia.
Thiên Chúa nhân lành,
Ngài không tạo sự ác, chỉ tại con người kiêu ngạo nên tự rước họa vào thân mà
thôi. Dù biết Thiên Chúa tận tình như vậy, chúng ta vẫn không được ỷ lại, mà phải
liên lỉ cầu nguyện: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng
con hằng trông cậy nơi Ngài.” (Tv 33:22) Tương tự câu trong Kinh Lạy Cha: “Xin
Cha tha nợ chúng con NHƯ chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Quan trọng ở
chữ NHƯ – nghĩa là chúng ta trông cậy ở mức nào thì được nhận lòng thương xót
như vậy, chúng ta tha thứ cho người khác thế nào thì được nhận ơn tha thứ như
thế. Đó là công bình, là công lý, và cũng là chân lý. Không thể CHO ít mà đòi
NHẬN nhiều. Thiên Chúa không bao giờ “bù lỗ” kiểu ích kỷ đó!
Mặc dù Thánh Phaolô căn dặn
riêng với Ti-mô-thê, nhưng cũng là nói với mỗi chúng ta hôm nay: “Anh đừng hổ
thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của
Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi
để loan báo Tin Mừng.” (2 Tm 1:8) Tất cả mọi người đều phải nỗ lực, không ngoại
bất kỳ trừ ai.
Mà tại sao chúng ta phải
nỗ lực làm chứng như vậy? Lý do tất yếu: “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta
vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng
là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ
muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ
chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện. Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết,
và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.” (2 Tm 1:10) Rất rõ
ràng, rất cụ thể.
Nếu chúng ta có thể thực
hiện được như vậy thì chắc chắn sẽ được tận hưởng niềm hạnh phúc trong Đức
Kitô, được trường sinh và vĩnh cư trong Vương Quốc Hằng Sống mà Ngài đi dọn sẵn
cho chúng ta. Đó mới thực sự là niềm hạnh phúc vĩnh viễn. Chúa Giêsu đi trước
và sẽ rước chúng ta đi sau.
2. PHÍA SAU
Ngày xưa, ông Giô-suê đã
nói với dân: “Nếu anh em lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần ngoại, Người sẽ
quay lại chống anh em, giáng họa xuống anh em và tiêu diệt anh em, dù TRƯỚC ĐÂY
Người đã giáng phúc cho anh em.” (Gs 24:19) Nhưng đối với dân thành Ni-ni-vê,
trước đó tội lỗi và bất hạnh mà sau đó được hạnh phúc nhờ biết sám hối. Thiên
Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Ngài hối tiếc về
tai hoạ Ngài đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Ngài đã không giáng xuống nữa. (x.
Gn 3:1-10) Rõ ràng việc sám hối có thể đảo ngược tình thế và thay đổi số phận
con người. Tùy ý, “ai thích cái gì sẽ được cái đó.” (Hc 15:17)
Hạnh phúc luôn mỉm cười với
những ai kiên trì và dũng cảm đi xuyên qua gian khó. Ai khổ luyện thì sẽ thành
tài. Vất vả trồng cây thì sẽ có ngày hưởng trái ngọt. Đó là quy luật chung muôn
thuở, như người Việt cũng nói: “Có công mài sắt, có ngày nên kim.” Đó là điều tất
nhiên và hoàn toàn hợp lý!
Triết gia và thần học gia
Albert Schweitzer (1875-1965, Pháp) có cách nhận xét rất cụ thể nhưng chí lý:
“Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác, nhưng nó cũng
trở nên đẹp đẽ và hạnh phúc hơn.” Ông không bi quan mà rất lạc quan, biết rõ điều
trước để được điều sau.
Cái gì phải đến rồi cũng
sẽ đến. Tránh trời không khỏi nắng, chẳng thoát mưa. Sáu ngày sau khi tiên báo
về cuộc thương khó, Đức Giêsu đem theo các môn sinh thân tín là Phêrô với hai
anh em Giacôbê và Gioan. Ngài đưa các ông tới một ngọn núi cao, rồi Ngài biến đổi
hình dạng trước mặt các ông. Khi đó, dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, và y
phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng. Các ông chưa hết ngỡ ngàng thì bỗng
các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài. Sự kiện này gây ngạc
nhiên nhưng vô cùng thú vị.
Trong khi quá hưng phấn,
ông Phêrô thưa ngay với Sư Phụ mà không cần so đo tính toán: “Lạy Ngài, chúng
con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho
Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” (Mt 17:4) Muốn dựng lều cho cả ba
vị chứ không hề nhắc tới lều cho ba anh em. Sao cũng được, ở “khách sạn ngàn sao”
chẳng thành vấn đề, miễn sao được tận hưởng niềm hạnh phúc tuyệt vời mà thôi.
Đó là lúc các ông được nếm thử hạnh phúc Nước Trời, nhờ đó mà cố gắng chịu gian
nan. Khổ trước phước sau.
Rất lạ lùng, từ ngạc
nhiên này tới ngạc nhiên khác. Sướng quá chừng luôn! Khi ông Phêrô chưa dứt lời
thì bất ngờ có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán:
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời
Người!” (Mt 17:5) Trước đó, sau khi Thánh Gioan Tẩy giả làm Phép Rửa cho Chúa
Giêsu tại sông Giođan, Chúa Cha cũng xác nhận tương tự về Đức Kitô Giêsu: “Đây
là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3:17) Không có gì để nghi ngờ
về mặc khải này. Đích thực là thiên khải rồi.
Nhưng lần mặc khải này
khác hẳn, bởi vì các ông vừa nghe tiếng nói đó thì kinh hoàng và ngã sấp mặt xuống
đất. Lạ lùng lắm, hết hồn luôn! Nhưng may là ba anh em vẫn bình an vô sự, mặc
dù té lăn cù trên đá sỏi lởm chởm. Thấy thế, Chúa Giêsu đến chạm vào các ông và
bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17:7) Các ông ngước mắt lên, không còn thấy ai
ngoài Sư Phụ. Kỳ lạ thật đấy, chả hiểu ất giáp gì ráo trọi. Nhưng vẫn thích, mọi
thứ rất tuyệt vời!
Trong lúc trên đường đi từ
trên núi xuống, Chúa Giêsu căn dặn các ông “đừng nói cho ai hay thị kiến ấy,
cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.” (Mt 17:9) Không thấy Kinh Thánh
cho biết các ông có nói gì hay không, có lẽ các ông chỉ biết im lặng vì chưa hiểu
hết ý Thầy, mà các ông cũng không dám hỏi Thầy điều gì. Tất cả đều rất lạ lùng,
không như suy nghĩ của loài người.
Lạy Thánh Phụ chí ái, xin
tha thứ cho chúng con về những ước mơ đã không hợp Thánh Ý Ngài, xin hướng dẫn
tư tưởng của chúng con, xin ban thêm các ơn cần thiết để chúng con đủ sức vượt
qua mọi trở ngại suốt chặng đường lữ hành trần gian. Chúng con cầu xin nhân
danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét