GIẢI ĐÁP MỘT SỐ THẮC MẮC VỀ VIỆC "XƯNG TỘI"
Lm.
Giuse Vũ Thái Hòa
Mùa Chay là thời gian thuận
tiện trong năm phụng vụ để tìm lại hoặc khám phá ra lại niềm vui được tha thứ,
và cũng là thời điểm để đào sâu thêm về sự phong phú của bí tích hòa giải.
« Xưng tội », « giải tội
», « hòa giải », tại sao lại có nhiều cách gọi như thế? « Giải tội » chỉ làm
chúng ta liên tưởng đến việc tha tội; còn « xưng tội » lại quá dính liền với việc
thú tội, không diễn tả hết chiều sâu của bí tích. Dù thế chúng ta vẫn thường
dùng danh từ này để chỉ định bí tích.
Chúng ta nhận xét thấy rằng,
ngày nay, người công giáo ngày càng ít đi "xưng tội", nhất là ở các xứ
tây phương. Họ không đi vì nhiều lý do khác nhau. Lý do quan trọng nhất, có lẽ
họ chưa hiểu tường tận ý nghĩa và sự phong phú của bí tích Hòa Giải.
Trong tinh thần ấy, tôi
xin mạn phép trả lời và giải thích vắn tắt một vài lý do mà một số tín hữu thường
đưa ra, cũng như giải đáp một số thắc mắc về vấn đề "xưng tội".
1. Tại sao bí
tích Hòa Giải có nhiều cách gọi khác nhau?
Qua dòng lịch sử, bí tích
Hòa Giải được gọi nhiều cách khác nhau:
Thống hối, hoặc sám hối,
nhấn mạnh đến hành vi hối cải của tội nhân, chê ghét tội đã phạm và dốc lòng
không phạm tội nữa;
Xưng tội chú trọng tới việc
thú nhận tội lỗi của mình với vị linh mục (chúng ta thường dùng danh từ này để
chỉ định bí tích);
Giải tội nhấn mạnh việc
tha tội.
Như thế, mỗi tên gọi chỉ
nhấn mạnh đến một trong ba điểm chính của bí tích Hòa Giải:
- Thống hối ăn năn,
- Xưng tội với một linh mục
và lãnh ơn tha tội.
- Làm việc đền tội và đền
bù các thiệt hại do tội gây ra
Hiện nay Giáo Hội không gọi
"bí tích giải tội" nữa, nhưng là "bí tích Hòa Giải". Việc đổi
danh từ làm nới rộng ý nghĩa sâu xa của bí tích này. Thật vậy "hòa giải"
chỉ rõ mục đích và kết quả của bí tích : tình thân hữu được nối lại giữa Thiên
Chúa và con người. Điều quan trọng nhất của bí tích không phải đặt nơi việc
xưng tội nhưng là để Thiên Chúa hòa giải với chúng ta. Nói cách khác, đi
"xưng tội" không phải để gây ra ơn tha thứ của Chúa, nhưng để lãnh nhận
ơn tha thứ đó. Dụ ngôn người con hoang đàng trong Phúc Âm (Lc 15,11-32) cho
chúng ta hiểu hơn về điểm này: trước khi người con thứ hối hận trở về, người
cha, với đôi tay luôn mở rộng, hằng kiên nhẫn ngóng chờ con trước ngõ. Chúng ta
đi "xưng" tội, nhưng đồng thời, chúng ta "tuyên xưng" lòng
nhân từ vô biên của Chúa và niềm hân hoan khôn xiết của Ngài khi được ôm chúng
ta chặt hơn nữa trong vòng tay của Ngài.
Nhưng "hòa giải"
cũng có nghĩa là sự hối cải trở về của chúng ta để làm hòa với Thiên Chúa, với
tha nhân và với chính bản thân mình. Như thế, để có bí tích Hòa Giải, phải có
hai đối tượng : tội nhân sám hối trở về, và Thiên Chúa là Đấng giàu tình thương
và tha thứ.
2. Bí tích là
gì?
Bí tích là tác động của
Chúa Giêsu được cử hành trong Giáo Hội dưới nghi thức phụng vụ gồm những cử chỉ
và ngôn từ. Nói gọn hơn, bí tích là dấu chỉ hữu hình của ơn thánh vô hình của
Chúa (le sacrement est le signe visible de la grâce invisible de Dieu).
Có tất cả 7 bí tích: Rửa
Tội, Thêm Sức, Thánh Thể, Hòa Giải, Xức dầu bệnh nhân, Truyền chức thánh và Hôn
phối. Tất cả các bí tích đều do Chúa Kitô thiết lập (xem sách Giáo lý Giáo Hội
Công Giáo, số 1113-1114).
Qua bí tích Hòa Giải,
Thiên Chúa ban ơn tha tội, ban ơn hòa giải: hòa giải với Ngài, với Giáo Hội, với
mọi người và với chính bản thân mình.
3. "Tôi ngại
đi xưng tội vì lần nào cũng xưng tội đó hoài!"
Câu nói này nhắc lại cho
chúng ta bốn điểm chính của bí tích Hòa Giải : thống hối ăn năn, xưng tội với một
linh mục, lãnh ơn tha tội, làm việc đền tội.
Trước khi vào tòa cáo giải,
chúng ta nhìn nhận những tội đã phạm, ăn năn sám hối và dốc lòng thay đổi đời sống:
dốc quyết chừa cải những tội lỗi đã phạm cũng như đền bù những thiệt hại gây
nên cho người khác bằng những quyết định cụ thể, chứ không bằng những quyết định
hoặc lời hứa chung chung, không rõ rệt.
Nhưng đàng khác, chúng ta
cũng đừng ngạc nhiên khi chúng ta thường tái phạm những tội đó. Chúa có muốn
chúng ta phạm thêm tội mới đâu! Ngay khi chúng ta thành thật sám hối và dốc
lòng chừa, chúng ta vẫn còn tái phạm, vì tính xác thịt yếu đuối luôn ở trong
chúng ta. Thánh Phaolô có nói: "Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí,
nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi
làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi
ghét, thì tôi lại cứ làm." (Rm 7,14-15). Ơn Chúa không hủy bỏ bản tính
loài người của chúng ta, nhưng làm cho nó được hoàn thiện, với điều kiện là
chúng ta chấp nhận biến đổi tâm hồn chúng ta. Vả lại hoán cải là một hành trình
dài, và phải luôn tin vào tình thương tha thứ của Chúa.
4. "Tôi
không biết phải nói gì với vị linh mục"
Muốn đi "xưng tội",
nhưng phải có tội mới đi xưng được ! Tuy thế, một số người mất cảm thức về tội
lỗi của mình và khó nhận định được thế nào là tội, hoặc ngược lại, kiếm đủ mọi
lý do để biện hộ hoặc tương đối hóa những hành động xấu của mình.
Tội là sự bất tuân lề luật
Chúa. Tội chỉ định một thái độ tiêu cực đối với Chúa, với tha nhân và với chính
bản thân mình. Tội không chỉ là một loạt các điều vấp phạm "trong tư tưởng,
lời nói, việc làm và những điều thiếu sót" (Kinh Sám Hối đầu Thánh lễ),
nhưng là sự phủ nhận tình yêu thương, đóng kín trái tim mình đối với người
khác, hoặc sự đồng lõa của mình vào các sự dữ.
Tội nặng hay nhẹ tùy theo
nhân đức bị lỗi phạm, nhất là đức ái ; cũng tùy theo nhiều yếu tố : hoàn cảnh,
ý muốn của mình, mức độ vô ơn với Thiên Chúa, gây gương xấu cho kẻ khác.
Tội trọng là tội trực tiếp
nghịch với cùng đích đời sống siêu nhiên là đức ái. Thành tội trọng khi việc
làm tự bản chất là một lỗi nặng, và cố tình phạm khi hoàn toàn hiểu biết.
Để thành tội trọng, phải
có đủ cả ba điều kiện này: 1. tự bản chất là một lỗi nặng (giết người, ngoại
tình, làm chứng gian...); 2. ý thức rõ ràng về lỗi nặng đó; 3. cố tình phạm.
Bình thường, các hối nhân
xét mình và xưng tội dựa theo mười Điều Răn Đức Chúa Trời, sáu Điều Răn Hội
Thánh và bảy mối tội đầu như: "Con phạm Điều Răn thứ... (bao nhiêu) lần".
Ngoài cách trên đây, mỗi người có thể đến gặp linh mục để kiểm điểm đời sống mình
và nhìn nhận những tội lỗi, thiếu xót của mình một cách chi tiết và cụ thể đối
với Chúa, đối với tha nhân và đối với chính bản thân mình.
Sau đây là những gợi ý
giúp xét mình:
● Đối với
Chúa
- Là người tín hữu, có
bao giờ ta quan tâm đến việc học hỏi giáo lý, Kinh Thánh để hiểu biết và giải
thích cho những người khác biết thế nào là Thiên Chúa, và Chúa Giêsu Kitô là ai?
- Có bao giờ ta biết dành
chút thời giờ trong tuần hoặc vài phút giây trong ngày để cầu nguyện không?
- Việc thờ phượng Thiên
Chúa: ta có siêng năng lãnh nhận các bí tích là nguồn ơn siêu nhiên (Thánh lễ,
bí tích Hòa Giải...)?
- Khi gặp những hoàn cảnh
khó khăn, thất bại... ta có biết sống tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa
không? Hay ngược lại, ta chỉ biết than thân trách phận, nguyền rủa xúc phạm
thánh danh Chúa?
- Nơi trường học hay tại
sở làm, ta có xấu hổ hoặc sợ người khác biết mình là Kitô hữu không?
- Thay vì tin Thiên Chúa
là tình yêu, là Đấng cứu độ duy nhất và là sức mạnh trong cuộc sống, ta có mê
tín tin dị đoan không: bói bài, tử vi...?
● Đối với tha
nhân
- Thay vì yêu thương và
giúp đỡ, ta có sống bất công và làm thiệt hại kẻ khác: ăn cắp, nói dối, vu khống
làm thiệt hại thanh danh người khác?
- Thay vì yêu thương và
tha thứ, ta có làm cho gia đình, bạn bè hoặc những người khác đau buồn bởi sự
khắc nghiệt, nóng giận, ghen tương hoặc bất trung của mình, không chịu tha thứ
hoặc làm hòa với người khác, đã vậy ta còn thù oán hoặc chúc dữ họ?
- Ta có làm gương xấu do
lời nói hoặc việc làm của mình?
- Ta có từ chối hoặc
tránh giúp đỡ người khác do lòng ích kỷ hoặc keo kiệt của mình?
● Đối với chính
bản thân
- Ta có hay kiêu căng, tự
phụ không?
- Ta có thiếu sót bổn phận
của mình trong gia đình, trong cộng đoàn...?
- Ta có rượu chè say sưa,
ăn uống không điều độ làm hại đến sức khỏe của mình?
- Ta có phạm lỗi đức
thanh sạch không?
Mỗi người diễn tả theo
cách của mình chứ không theo khuôn mẫu nhất định nào cả. Một số người có thói
quen tốt trước khi xét mình, là đọc một đoạn Kinh Thánh, nhất là trong Phúc Âm
(chẳng hạn: Mt 5,1-12 : Tám mối Phúc thật; Mt 25,31-46 : ngày Phán xét chung;
Lc 15,11-32: dụ ngôn người con hoang đàng; Lc 19,1-10 : Chúa vào nhà ông
Gia-kêu; Ga 8,3-11: Chúa tha tội người đàn bà ngoại tình...). Lời Chúa soi sáng
và giúp chúng ta nhận ra thân phận yếu đuối cũng như tội lỗi của mình.
5. "Tôi
không cảm thấy cần đi xưng tội"
Đã có biết bao lần chúng
ta không muốn làm một điều gì đó, mặc dù biết rằng điều đó rất cần thiết cho
chúng ta! Chẳng hạn, ai cũng biết rằng, đối với một số bệnh nào đó, việc giải
phẫu là điều cần thiết, nhưng có bệnh nhân nào hân hoan khi chuẩn bị lên bàn mổ
không ?
Vai trò của việc
"xưng tội" trước tiên không phải để thỏa mãn việc giải bày tâm sự những
chuyện thầm kín. Vai trò của linh mục rộng lớn hơn vai trò của một thầy thuốc.
Thật vậy, trong bí tích Hòa Giải, linh mục vừa là người mà chúng ta đến xin ơn
tha thứ của Chúa, vừa là chứng nhân lòng nhân từ vô biên của Chúa. Qua trung
gian của vị linh mục, ơn Chúa tuôn ban cho chúng ta.
Giáo Hội không thể tha tội,
hòa giải nếu hối nhân không tự thú các tội lỗi của mình bằng một cách nào đó.
Do đó, việc xưng tội trở nên một đòi hỏi cần thiết để lãnh ơn tha tội.
6. "Tôi cảm
thấy xấu hổ khi đi xưng tội"
Bí tích Hòa Giải đâu có
phải là một hình phạt hoặc một việc hèn hạ mà Chúa bắt chúng ta chịu trước khi
tha tội cho chúng ta đâu! Vả lại, chúng ta đừng quên rằng linh mục cũng là một
người tội lỗi, và cũng thường đi "xưng tội". Khi thưa với linh mục là
thừa tác viên của Chúa Kitô, điều chính yếu không đặt nơi bảng liệt kê các tội,
nhưng là, qua các tội đã phạm, sự khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi của
chúng ta và dốc lòng không tái phạm.
Lời thú nhận cá nhân
trong tòa cáo giải rất cần thiết và quan trọng. Thật vậy, để lãnh ơn tha thứ,
điều trước tiên là chúng ta phải xin! Làm sao có thể tha thứ cho một người nếu
người đó không xin lỗi, nếu người đó không nghĩ rằng những việc mình làm là xấu
xa, dù bị người khác trách cứ? Hơn nữa, thú tội lỗi của mình là hành vi của một
người tự do: "Tôi không làm điều tôi mong muốn" hoặc "Tôi lại
làm điều tôi không muốn" (Rm 7,15). Đàng khác, khi biết rằng vị linh mục
giữ bí mật tuyệt đối những gì ngài nghe trong tòa cáo giải, chúng ta sẽ không
ái ngại khi xưng tội với ngài, là người đại diện của Chúa.
7. "Mỗi
năm xưng tội một lần là đủ rồi!"
Một số người nghĩ rằng đi
« xưng tội » thường xuyên là điều vô ích, vì họ lý luận như sau: sau khi xưng tội,
tâm hồn họ lại bị hoen ố trở lại vì tiếp tục phạm tội. Nhưng tại sao họ không
đi xa hơn trong lý luận của họ: tắm mỗi ngày làm chi vô ích, vì ngày hôm sau
thân thể họ cũng sẽ dơ trở lại ? Cũng thế, có ai cho rằng giặt quần áo thường
xuyên làm chi cho uổng công, uổng tiền, vì một thời gian sau quần áo cũng sẽ bị
dơ bẩn trở lại?
Đúng thế, Giáo Hội chỉ buộc
đi "xưng tội" (xưng các tội trọng) mỗi năm ít nhất là một lần. Nhưng
Giáo Hội mạnh mẽ khuyến khích các tín hữu năng đi lãnh nhận bí tích Hòa Giải, mặc
dù chỉ xưng các tội nhẹ thường ngày. Thật vậy, giữ tâm hồn thanh sạch một thời
gian, dù ngắn ngủi, cũng là việc nên làm, cũng như việc tắm rửa thân thể của
mình. Hơn nữa, những ai hiểu ý nghĩa của bí tích Hòa Giải và năng lãnh bí tích
này đúng cách sẽ thấy rằng bí tích Hòa Giải không những rửa sạch mọi vết nhơ của
tội lỗi, mà còn giúp đào tạo lương tâm của chúng ta, giúp chúng ta chống lại những
khuynh hướng xấu, để Chúa Kitô chữa lành chúng ta, và giúp chúng ta tiến bộ
trong đời sống thiêng liêng.
8. "Tôi
thích xưng tội tập thể hơn!"
Có ba hình thức lãnh bí
tích Hòa Giải:
● Xưng tội riêng
Việc xưng tội cá nhân và
lãnh ơn tha tội sau đó vẫn là cách thức và hành vi phụng vụ thông thường trong
Giáo Hội (ngoại trừ những ai không có khả năng về thể lý và tinh thần). Bởi vì,
trong bí tích này, cũng như trong tất cả các bí tích, chính Chúa Kitô hành động,
và Ngài nói với từng tội nhân: "này con, tội con đã được tha" (Mc
2,5). Ngài là thầy thuốc cúi xuống trên từng bệnh nhân cần đến Ngài để được chữa
lành. Do đó, việc xưng tội cá nhân là hình thức có ý nghĩa nhất của việc hòa giải
với Thiên Chúa và với Giáo Hội.
● Nghi thức sám hối
chung và xưng tội riêng
Ngoài việc xưng tội
riêng, Giáo Hội khuyến khích tín hữu tham dự các nghi thức sám hối chung của cộng
đoàn. Cộng đoàn cùng cử hành Phụng vụ Lời Chúa, nghe giảng, xét mình và sám hối
chung, nhưng sau đó mỗi người sẽ xưng tội riêng với linh mục. Việc cử hành này
làm nổi bật tính chất Giáo Hội của bí tích Hòa Giải và vai trò quan trọng của Lời
Chúa :
- Tính chất Giáo Hội được
nổi bật : mọi tội lỗi, dù là tội cá nhân, đều ảnh hưởng đến cộng đoàn và Giáo Hội
là Nhiệm Thể Chúa Kitô. Nghi thức chung làm nổi bật ơn tha thứ và hòa giải với
Thiên Chúa và với Giáo Hội.
- Vai trò quan trọng của
Lời Chúa : sau công đồng Vaticanô II, Giáo Hội muốn nhấn mạnh vai trò chính yếu
của Lời Chúa trong việc cử hành các bí tích. Trong việc cử hành bí tích Hòa Giải,
nhất là trong việc xưng tội riêng, Lời Chúa thường bị quên lãng hoặc coi nhẹ.
Kinh Thánh mạc khải Thiên Chúa luôn yêu thương con người và biểu lộ ơn tha thứ
của Ngài trong Chúa Kitô. Lời Chúa là ánh sáng hướng dẫn đường đi và đổi mới cuộc
đời chúng ta.
● Xưng tội và giải tội
tập thể
Việc xưng tội và giải tội
tập thể chỉ được áp dụng trong những trường hợp khẩn thiết, chẳng hạn khi có
nguy cơ tử vong mà không có đủ linh mục hoặc không đủ thời giờ để xưng tội
riêng ; hoặc trong những hoàn cảnh khó khăn, như trong lao tù, trại tị nạn... khiến
giáo dân không thể Rước Lễ.
Mặc dù có số đông đảo tín
hữu tụ tập nhân dịp các lễ trọng, hoặc nhân dịp các cuộc hành hương, vẫn không
được coi là trường hợp khẩn thiết (Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 1483).
Có những trường hợp khẩn
thiết khác tùy theo quốc gia, vùng hoặc địa phận, nhưng chỉ có các giám mục mới
có thẩm quyền quyết định mà thôi.
Trong trường hợp cho
phép, và để bí tích được thành hiệu, phải hội đủ các điều kiện sau đây:
- Ăn năn sám hối và dốc
lòng chừa
- Cương quyết sửa chữa lại
gương xấu và đền bù những thiệt hại cho người khác
- Phải xưng lại các tội
trọng, khi có dịp xưng tội riêng sau đó, mà mình không thể xưng hôm đó được.
Việc xưng tội riêng sau
đó không đòi hỏi việc ban ơn tha tội lại, vì Chúa đã tha tội trong nghi thức giải
tội tập thể rồi. Mục đích của việc xưng lại các tội trọng là được sự giúp đỡ hữu
hiệu và thiết thực của vị linh mục.
9. "Tôi
thích xưng tội trực tiếp với Chúa"
Trong cuộc đời truyền
giáo của Chúa Giêsu, Ngài đã tha tội và hòa giải. Ngài đến để tha thứ và chữa
lành chứ không phải để xét đoán và lên án. Hơn nữa Ngài muốn sự tha thứ và hòa
giải này luôn hiện hữu giữa lòng nhân loại và qua mọi thời đại. Do đó, trước
khi lên trời, Chúa Giêsu nói với các tông đồ: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy
cũng sai các con". Rồi, Ngài thổi hơi và phán bảo các ông : "Các con
hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha" (Ga
20,21-23). Khi tuyên bố điều đó, Chúa Giêsu trao quyền tha tội, quyền hòa giải
cho các tông đồ.
Ngay sau lễ Chúa Thánh Thần
hiện xuống, các tông đồ bắt đầu thực hiện những gì Chúa Giêsu giao phó. Mặc dù
có nhiều thay đổi về hình thức trong lịch sử của Giáo Hội, ơn tha thứ của Chúa
luôn được trao ban qua bí tích Hòa Giải và qua Giáo Hội, nghĩa là qua trung
gian của một vị giám mục, là người kế vị các tông đồ, hay một vị linh mục, là
người cộng tác của hàng giám mục.
Vì vậy, việc thống hối
nhìn nhận tội lỗi của mình vẫn chưa đủ, mà còn phải thành thật thú tội với linh
mục có thẩm quyền đại diện Chúa Kitô và Giáo Hội để xét xử, hướng dẫn và ban ơn
tha tội (Giáo luật, số 959). Như thế linh mục ban phép giải tội không do danh
nghĩa cá nhân nhưng nhân danh Chúa Ba Ngôi: "Vậy cha tha tội cho con, nhân
danh Cha và Con và Thánh Thần". Chân phước Isaac de l’Étoile, vào thế kỷ
XII, đã nhấn mạnh đến sự hiệp thông mật thiết giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của
Ngài trong việc tha tội: "Giáo Hội không thể tha tội nếu không có Chúa
Kitô, và Chúa Kitô không muốn tha tội nếu không có Giáo Hội" (xem Tông thư
"Hòa giải và Thống hối", của ĐGH Gioan-Phaolô II, công bố ngày
2-12-1984, lời chú thích số 162).
Một số câu hỏi
khác thường được đặt ra
● Câu hỏi 1: Xưng
tội qua điện thoại hoặc qua Internet (E-mail, Skype, Messenger...) có được
không?
Trả lời: Trong chúng ta, có ai đã nhờ bác sĩ khám bệnh hoặc chữa
một vết thương qua... điện thoại hoặc Internet chưa ? Hay là, mời bạn bè ăn
cơm... hàm thụ chưa?
Như đã đề cập trong mục số
8 ("Tôi thích xưng tội tập thể hơn", phần "xưng tội riêng"):
bí tích Hòa Giải cần có cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa hối nhân và vị linh mục. Vì
sau khi nghe xưng tội, linh mục sẽ hướng dẫn, giúp đỡ người đó một cách hữu hiệu
và thiết thực. Sau đó, linh mục giơ tay lên ban ơn tha thứ và hòa giải nhân
danh Chúa Kitô : "Vậy Cha tha tội cho con, nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần". Chính Chúa Kitô hiện diện và hành động trong bí tích này, dưới tác
động của Chúa Thánh Thần.
Như thế, bí tích Hòa Giải
đòi hỏi sự hiện diện của linh mục và hối nhân.
Do đó, không thể lãnh bí
tích Hòa Giải qua điện thoại hoặc qua Internet được.
● Câu hỏi 2: Khi
xưng tội, có thể nhờ người thông dịch được không ?
Trả lời: Là người Việt Nam tại hải ngoại, chúng ta thường gặp
khó khăn về vấn đề ngôn ngữ, rồi lại ở xa Cộng đoàn Việt Nam, hiếm có dịp gặp
linh mục Việt Nam để xưng tội.
Giáo Hội cho phép xưng tội
với sự giúp đỡ của thông dịch viên, với điều kiện phải tránh mọi lạm dụng,
gương xấu, và người thông dịch phải giữ bí mật tuyệt đối (Giáo luật, số 990 và
983).
● Câu hỏi 3: Có thể
xưng tội bằng tiếng Việt với một linh mục ngoại quốc được không?
Trả lời: Nếu không găp được linh mục Việt Nam để xưng tội thì
có thể nhờ thông dịch viên (xem Câu hỏi 2 trên đây). Có cách khác, là nhờ người
quen viết trên giấy một câu bằng tiếng Anh, Pháp, Đức, v.v... Đại khái nội dung
như sau : "Con không biết nói tiếng Anh (Pháp, Đức...). Xin Cha cho phép
con xưng tội bằng tiếng Việt". Rồi trao cho linh mục ngoại quốc khi vào
xưng tội, và xưng tội bằng tiếng Việt. Sau đó Cha "tây" sẽ ban phép
giải tội cho mình. Thiên Chúa thấu hiểu tâm hồn chúng ta và sẽ tha thứ mọi tội
lỗi chúng ta. Về việc đền tội, chúng ta có thể đọc kinh, cầu nguyện, làm việc
bác ái, và đền bù những thiệt hại đã gây nên cho kẻ khác.
Giáo Hội chỉ cho phép
xưng tội theo cách thức này trong những trường hợp khẩn cấp để tránh những lạm
dụng.
Theo luật của Giáo Hội,
các tín hữu buộc đi xưng các tội trọng ít nhất mỗi năm một lần, nếu không, sẽ
không được rước Mình Thánh Chúa, trừ khi người đó có lý do nghiêm trọng để rước
lễ và không thể gặp một cha giải tội. Trong trường hợp này, người đó phải thành
tâm thống hối và dốc quyết đi xưng tội sớm ngần nào có thể (Giáo Lý Giáo Hội
Công Giáo, số 1457; Giáo luật, số 916 và 989).
Như thế, Giáo Hội chỉ buộc
xưng các tội trọng trước khi lên Rước Lễ. Nếu chỉ phạm các tội nhẹ thường ngày,
thì chỉ cần ăn năn tội rồi lên Rước Lễ, không buộc phải xưng tội trước.
***
Để kết luận, tôi xin mượn lời kêu mời của thánh Phaolô : "Nhân
danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy hòa giải với Thiên Chúa" (2 Cr
5,20). Thiên Chúa luôn chờ đợi chúng ta trở về với Ngài, như người cha kiên tâm
ngóng đợi người con hoang đàng trở về, để ban ơn tha thứ, ơn hòa giải và ơn
bình an trong tâm hồn.
Ước mong tất cả anh chị
em tín hữu biết tìm ra lại ý nghĩa phong phú của bí tích Hòa Giải là nguồn sức
thiêng liêng, là "thuốc bổ" cho đời sống đức tin của chúng ta, cũng
như niềm vui được tha thứ, niềm hân hoan được Thiên Chúa yêu thương.
Tác giả: Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét