NHÃN QUAN NHÃN QUAN
Mù
Mắt Xác Thân Khổ Đời Thế Tục
Sáng
Lòng Tin Kính Vui Sống Bình An
Nhãn quan là tầm nhìn –
nghĩa đen, với nghĩa bóng là quan điểm, khả năng nhận thức, khả năng nhận xét vấn
đề một cách đúng đắn. Nhãn quan cũng có mức độ khác nhau, tùy tầm nhìn sâu rộng
hoặc hạn hẹp. Xét về con mắt, có thứ khiến người ta hợp nhãn hoặc mãn nhãn,
nhưng có thứ lại khiến người ta “chói mắt” hoặc không muốn nhìn thấy.
Con mắt có thể tiết lộ
nhiều thứ độc hại, bởi vì “Ai nhìn với con mắt đố kỵ là người xấu, nó ngoảnh mặt
đi và khinh dể thiên hạ.” (Hc 14:8) Con mắt cũng là “đường dẫn” nhiều thứ xấu
xa: “Có thụ tạo nào tệ hơn con mắt? Gặp chi nó cũng phát khóc vì thèm.” (Hc
31:13) Người ta so sánh: “Mắt láo liên như thằng trộm cắp.” Vì thế, Kinh Thánh
khuyên cẩn trọng: “Hãy học cho biết đâu là khôn ngoan, đâu là sức mạnh, đâu là
thông hiểu, đâu là trường thọ và sự sống, đâu là ánh sáng soi con mắt, và đâu
là bình an.” (Br 3:14) Trong đó có con mắt. Không hề đơn giản!
Với kinh nghiệm sống, tiền
nhân đã xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay.” Điều đó chứng tỏ rằng
đôi mắt sáng thực sự là điều cần thiết cho cuộc sống đời thường. Người mù bẩm
sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên rồi mới bị mù. Người mù bẩm sinh vẫn cảm thấy
“bình thường” vì họ không có khái niệm về chiều kích hoặc màu sắc. Người lớn
lên mới bị mù chắc chắn cảm thấy khổ sở hơn vì đã trải nghiệm những khái niệm
liên quan cuộc sống.
Đau đâu khốn đấy. Có hai
con mắt mà một mắt có thị lực yếu, bị đau hoặc bị mờ, thậm chí chỉ là bụi vào mắt,
cũng thấy khổ lắm rồi chứ nói chi bị mù hẳn. Hai con mắt mà “khác” một chút
thôi cũng đủ biết khổ sở, tình trạng “bốn mắt” cũng chẳng thoải mái gì, khổ suốt,
vì cứ phải lệ thuộc vào cái kính. Vướng víu!
Con mắt cũng có khả năng
biểu cảm – biết khóc, biết cười, biết giận, biết thương. Khó nhận biết khi mắt
cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn,
vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nũng nịu, vì giả bộ,… Tuy nhiên,
đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nỗi buồn
và làm sạch mắt nhờ chất mặn. Về tâm linh, cần phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm
– tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân. Nhiều lắm, nhất là trong tư tưởng và
những thiếu sót.
Thật kỳ lạ, con mắt còn
có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, thế nên đôi mắt được coi là “cửa sổ” của
tâm hồn. Qua hai “cửa sổ bé nhỏ” này, người ta có thể nhận biết người đối diện
như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn thực sự
quan trọng. Đối với con người, ai yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của
người “mạnh vía” hơn mình. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu. Tự nhiên vậy
thôi!
Tình trạng mù lòa đồng
nghĩa với tối tăm, trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là
tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” không chỉ tồi
tệ mà còn nguy hiểm. Thế nên Chúa Giêsu xác định: “Tôi đến thế gian này chính
là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui
mù!” (Ga 9:39) Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Lúc đó,
chúng ta hóa thành người “có mắt như mù.” Quá đỗi khủng khiếp. Chết chắc!
Khóc vì buồn, buồn vì tiếc.
Nhưng có đáng tiếc hay không? Ngày xưa, Thiên Chúa nói thẳng với Samuel: “Ngươi
còn khóc thương Saun cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua
cai trị Israel nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến
gặp Giesê người Bêlem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt
làm vua.” (1 Sm 16:1) Thiên Chúa không đề cập con mắt, nhưng chúng ta biết Ngài
nói đến mắt nhờ động từ “khóc” – liên quan nước mắt.
Chúng ta biết thông tin
qua trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 rằng khi họ đến, ông Samuel thấy Êliáp, ông
nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa
đây!” Thế nhưng Đức Chúa bảo ông Samuel: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người
cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm:
người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.” Cách
nghĩ của Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn với loài người, tầm nhìn của Ngài cũng
hoàn toàn khác với tầm nhìn của phàm nhân, kể cả tư tưởng – cách xa một trời một
vực.
Theo cách nhìn của con
người, chúng ta thường quan niệm rằng “quen sợ dạ, lạ sợ áo.” Vì nhìn thấy “con
lợn béo” nên cho rằng “lòng nó ngon.” Thiên Chúa lại không có quan niệm niệm
như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ
Việt Nam nhắc nhở: “Chiếc áo không làm nên thầy tu.” Những người coi trọng bề
ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt
kém.” Chúng ta thường dựa vào chức vụ hoặc bằng cấp (cả đời và đạo) để xác định
“trình độ” của ai đó, nhưng thực sự là “bé cái lầm” mà thôi.
Rồi ông Giesê cho bảy người
con trai đi qua trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Giesê: “Đức
Chúa không chọn những người này.” Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi rằng
các con ông Giesê có mặt đầy đủ chưa. Ông Giesê nói còn cháu út đang chăn
chiên. Ông Samuel liền bảo ông Giesê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc.
Ông Giesê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt
xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Samuel: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi!
Chính nó đó!” Ông Samuel cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu.
Thần khí Chúa nhập vào Đavít từ ngày đó trở đi.
Đáp ca hôm nay sử dụng cả
6 câu trong Thánh Vịnh 23 [22]. Đây là Thánh Vịnh phổ biến, quen thuộc, nói về
niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng và gìn giữ, đồng thời cũng đề cập lòng tín
thác: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh
tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức
cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv
23:1-4) Đó là cách sống đức tin – phó thác cho Thiên Chúa định liệu mọi sự.
Kinh nghiệm dù nhiều hay
ít cũng cho thấy đúng như vậy. Quả thật, khi có Thiên Chúa đồng hành thì “dầu
qua lũng âm u” cũng “chẳng sợ gì nguy khốn,” bởi vì có “côn trượng Ngài bảo vệ”
thì hoàn toàn “vững dạ an tâm.” Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa dọn sẵn cho con
bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con
đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv
23:5-6) Có Chúa là có tất cả, vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ
không tăm tối. Chẳng phải lo chi, mà có lo cũng chẳng xong, sợ cũng chẳng được:
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.”
Rất thực tế, Thánh Phaolô
nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh
sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những
gì là lương thiện, công chính và chân thật.” (Ep 5:8-9) Có nghĩa là phải cẩn trọng
xem “điều gì đẹp lòng Chúa,” chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con
cái bóng tối,” đặc biệt là “phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng.” (Ep
5:10-11) Ông giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút thì nói đến đã là nhục
rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ
điều gì lộ ra thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi
người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng
ngươi!” (Ep 5:12-14) Có lẽ ai cũng sợ sự vạch trần hoặc tố giác. Tại sao? Vì đồng
lõa với bóng tối – lãnh địa của ma quỷ.
Mặc dù bóng tối rất mạnh,
chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nhưng nó mạnh mà yếu, vì chỗ nào
có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng sẽ phải lui ngay. Bóng tối dày đặc của cả
thế gian cũng không thể che khuất một đốm sáng. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác
động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng
“tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng
ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn
là ngồi nguyền rủa bóng tối.” Mù Mắt Xác Thân Khổ Đời Thế Tục
Sáng Lòng Tin Kính Vui Sống
Bình An
Nhãn quan là tầm nhìn –
nghĩa đen, với nghĩa bóng là quan điểm, khả năng nhận thức, khả năng nhận xét vấn
đề một cách đúng đắn. Nhãn quan cũng có mức độ khác nhau, tùy tầm nhìn sâu rộng
hoặc hạn hẹp. Xét về con mắt, có thứ khiến người ta hợp nhãn hoặc mãn nhãn,
nhưng có thứ lại khiến người ta “chói mắt” hoặc không muốn nhìn thấy.
Con mắt có thể tiết lộ
nhiều thứ độc hại, bởi vì “Ai nhìn với con mắt đố kỵ là người xấu, nó ngoảnh mặt
đi và khinh dể thiên hạ.” (Hc 14:8) Con mắt cũng là “đường dẫn” nhiều thứ xấu
xa: “Có thụ tạo nào tệ hơn con mắt? Gặp chi nó cũng phát khóc vì thèm.” (Hc
31:13) Người ta so sánh: “Mắt láo liên như thằng trộm cắp.” Vì thế, Kinh Thánh
khuyên cẩn trọng: “Hãy học cho biết đâu là khôn ngoan, đâu là sức mạnh, đâu là
thông hiểu, đâu là trường thọ và sự sống, đâu là ánh sáng soi con mắt, và đâu
là bình an.” (Br 3:14) Trong đó có con mắt. Không hề đơn giản!
Với kinh nghiệm sống, tiền
nhân đã xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay.” Điều đó chứng tỏ rằng
đôi mắt sáng thực sự là điều cần thiết cho cuộc sống đời thường. Người mù bẩm
sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên rồi mới bị mù. Người mù bẩm sinh vẫn cảm thấy
“bình thường” vì họ không có khái niệm về chiều kích hoặc màu sắc. Người lớn
lên mới bị mù chắc chắn cảm thấy khổ sở hơn vì đã trải nghiệm những khái niệm
liên quan cuộc sống.
Đau đâu khốn đấy. Có hai
con mắt mà một mắt có thị lực yếu, bị đau hoặc bị mờ, thậm chí chỉ là bụi vào mắt,
cũng thấy khổ lắm rồi chứ nói chi bị mù hẳn. Hai con mắt mà “khác” một chút
thôi cũng đủ biết khổ sở, tình trạng “bốn mắt” cũng chẳng thoải mái gì, khổ suốt,
vì cứ phải lệ thuộc vào cái kính. Vướng víu!
Con mắt cũng có khả năng
biểu cảm – biết khóc, biết cười, biết giận, biết thương. Khó nhận biết khi mắt
cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn,
vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nũng nịu, vì giả bộ,… Tuy nhiên,
đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nỗi buồn
và làm sạch mắt nhờ chất mặn. Về tâm linh, cần phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm
– tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân. Nhiều lắm, nhất là trong tư tưởng và
những thiếu sót.
Thật kỳ lạ, con mắt còn
có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, thế nên đôi mắt được coi là “cửa sổ” của
tâm hồn. Qua hai “cửa sổ bé nhỏ” này, người ta có thể nhận biết người đối diện
như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn thực sự
quan trọng. Đối với con người, ai yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của
người “mạnh vía” hơn mình. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu. Tự nhiên vậy
thôi!
Tình trạng mù lòa đồng
nghĩa với tối tăm, trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là
tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” không chỉ tồi
tệ mà còn nguy hiểm. Thế nên Chúa Giêsu xác định: “Tôi đến thế gian này chính
là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui
mù!” (Ga 9:39) Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Lúc đó,
chúng ta hóa thành người “có mắt như mù.” Quá đỗi khủng khiếp. Chết chắc!
Khóc vì buồn, buồn vì tiếc.
Nhưng có đáng tiếc hay không? Ngày xưa, Thiên Chúa nói thẳng với Samuel: “Ngươi
còn khóc thương Saun cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua
cai trị Israel nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến
gặp Giesê người Bêlem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt
làm vua.” (1 Sm 16:1) Thiên Chúa không đề cập con mắt, nhưng chúng ta biết Ngài
nói đến mắt nhờ động từ “khóc” – liên quan nước mắt.
Chúng ta biết thông tin
qua trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 rằng khi họ đến, ông Samuel thấy Êliáp, ông
nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa
đây!” Thế nhưng Đức Chúa bảo ông Samuel: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người
cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm:
người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.” Cách
nghĩ của Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn với loài người, tầm nhìn của Ngài cũng
hoàn toàn khác với tầm nhìn của phàm nhân, kể cả tư tưởng – cách xa một trời một
vực.
Theo cách nhìn của con
người, chúng ta thường quan niệm rằng “quen sợ dạ, lạ sợ áo.” Vì nhìn thấy “con
lợn béo” nên cho rằng “lòng nó ngon.” Thiên Chúa lại không có quan niệm niệm
như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ
Việt Nam nhắc nhở: “Chiếc áo không làm nên thầy tu.” Những người coi trọng bề
ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt
kém.” Chúng ta thường dựa vào chức vụ hoặc bằng cấp (cả đời và đạo) để xác định
“trình độ” của ai đó, nhưng thực sự là “bé cái lầm” mà thôi.
Rồi ông Giesê cho bảy người
con trai đi qua trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Giesê: “Đức
Chúa không chọn những người này.” Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi rằng
các con ông Giesê có mặt đầy đủ chưa. Ông Giesê nói còn cháu út đang chăn
chiên. Ông Samuel liền bảo ông Giesê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc.
Ông Giesê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt
xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Samuel: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi!
Chính nó đó!” Ông Samuel cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu.
Thần khí Chúa nhập vào Đavít từ ngày đó trở đi.
Đáp ca hôm nay sử dụng cả
6 câu trong Thánh Vịnh 23 [22]. Đây là Thánh Vịnh phổ biến, quen thuộc, nói về
niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng và gìn giữ, đồng thời cũng đề cập lòng tín
thác: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh
tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức
cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv
23:1-4) Đó là cách sống đức tin – phó thác cho Thiên Chúa định liệu mọi sự.
Kinh nghiệm dù nhiều hay
ít cũng cho thấy đúng như vậy. Quả thật, khi có Thiên Chúa đồng hành thì “dầu
qua lũng âm u” cũng “chẳng sợ gì nguy khốn,” bởi vì có “côn trượng Ngài bảo vệ”
thì hoàn toàn “vững dạ an tâm.” Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa dọn sẵn cho con
bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con
đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv
23:5-6) Có Chúa là có tất cả, vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ
không tăm tối. Chẳng phải lo chi, mà có lo cũng chẳng xong, sợ cũng chẳng được:
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.”
Rất thực tế, Thánh Phaolô
nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh
sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những
gì là lương thiện, công chính và chân thật.” (Ep 5:8-9) Có nghĩa là phải cẩn trọng
xem “điều gì đẹp lòng Chúa,” chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con
cái bóng tối,” đặc biệt là “phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng.” (Ep
5:10-11) Ông giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút thì nói đến đã là nhục
rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ
điều gì lộ ra thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi
người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng
ngươi!” (Ep 5:12-14) Có lẽ ai cũng sợ sự vạch trần hoặc tố giác. Tại sao? Vì đồng
lõa với bóng tối – lãnh địa của ma quỷ.
Mặc dù bóng tối rất mạnh,
chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nhưng nó mạnh mà yếu, vì chỗ nào
có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng sẽ phải lui ngay. Bóng tối dày đặc của cả
thế gian cũng không thể che khuất một đốm sáng. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác
động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng
“tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng
ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn
là ngồi nguyền rủa bóng tối.”
Chỉ là chuyện đời thường
tạm bợ mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện tâm linh càng phải nỗ lực hơn rất
nhiều, không thể gặp chăng hay chớ hoặc tùy hứng.
Trình thuật Ga 9:1, 6-9,
13-17, 34-38 cho biết rằng cả Thầy Trò cùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh.
Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra
đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Ngài trả lời: “KHÔNG phải anh ta, cũng CHẲNG
phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy
công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công
trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc
được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” Khi “thiên hạ
nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc Ngài được vinh danh.
Ngài nói rõ ràng, nhưng
người ta vẫn chẳng “ngộ” ra sự thật, phải chăng vì không quan tâm? Thế nên
trong cuộc sống, chúng ta vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn
mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn, bị xui xẻo,
gặp hạn,…) đều là những người tội lỗi. Có người chỉ “để bụng,” nhưng có người lại
dám “phán” rằng “Chúa phạt!” hoặc “Đáng đời!” Ôi, lạy Chúa, nói theo kiểu phim
Hong Kong thì đúng là “thiện tai” thật!
Cũng chưa xong, người ta
còn có thiên kiến – định kiến, thành kiến. Cùng sự cố như nhau (ví dụ: bệnh hoạn),
với người không “hợp ý mình” thì người ta nói là do Chúa phạt, nhưng với người
“hợp ý mình” thì lại nói rằng đó là Thánh giá Chúa trao. Đúng là “cái lưỡi
không xương nhiều đường lắt léo.” Nếp nghĩ lệch lạc đó chính là động thái “giết
người” mà không cần vũ khí. Thật đáng quan ngại!
Sau khi cho các đệ tử biết
lý do, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người
mù và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa.” (Silôác [Siloah] nghĩa là Người Sai
Phái. Hồ này ở phía Đông Nam Giêrusalem, cuối thung lũng Tyropeon.) Anh ta liền
đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có biệt dược độc đáo ghê
đi, phải nói là “thần dược” hoặc “linh dược” mới đúng, mặc dù chỉ là “nước miếng
trộn với bùn.” Hay quá chừng. Mấy lang băm chớ mà học đòi theo, kẻo các pháp sư
phải sợ mà chạy có cờ, còn các lương y và bác sĩ danh tiếng phải tâm phục khẩu
phục. Thật là tuyệt chiêu!
Người bàn ra, kẻ tán vào,
xì xầm bàn tán theo ý kiến riêng, vì trước kia họ thường thấy anh ta ăn xin. Có
người chắc chắn là chính hắn, có kẻ thì bảo không phải, kẻ khác lại bảo một người
giống hắn. Chín người, mười ý, lắm lý nhiều ý, chẳng ai chịu ai. Thế rồi họ dẫn
anh ta đến gặp nhóm Biệt Phái quái đản. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu làm cho anh
ta sáng mắt lại là ngày sabát. Nhóm Pharisêu hỏi thêm một lần nữa rằng tại sao
anh ta sáng mắt, và chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa
và tôi nhìn thấy.” Trong nhóm Pharisêu, người thì bảo Chúa Giêsu không thể là
người của Thiên Chúa vì Ngài không giữ ngày sa-bát, kẻ thì bảo rằng người tội lỗi
không thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm
ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi? Rồi họ lại hỏi
ý kiến của anh ta về người đã chữa mắt. Anh ta nói ngay: “Người là một vị ngôn
sứ!” Quá đúng. Nhưng cũng vì vậy mà nhóm Pharisêu phát tức, máu bốc tới chỏm đầu.
Sự thật rõ ràng, vậy mà
người Do Thái vẫn không tin trước đây anh bị mù và bây giờ nhìn thấy, họ đã gọi
cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi anh có phải là con của họ hay không, cha mẹ anh xác
nhận anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây giờ anh sáng mắt thì họ không biết tại
sao, cha mẹ anh bảo họ cứ hỏi anh ta là chính xác nhất. Cha mẹ anh nói thế vì sợ
người Do Thái, những người sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám
tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Thật tồi tệ đối với những kẻ lắm quyền nhiều
chức!
Và một lần nữa, chính họ
gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta
đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” (Ga 9:24) Nhưng anh ta bảo rằng
ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà anh chỉ biết một
điều là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa
Giêsu đã làm thế nào mà anh sáng mắt, anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không
chịu nghe. Anh thẳng thắn nói rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu
hay không. Máu tự ái lại bốc lên nên họ không tiếc lời mắng nhiếc, thóa mạ: “Có
mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Môsê.
Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê; nhưng chúng ta không biết
ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến.” Đúng là “kẻ ngu mở miệng là tai họa đến gần.” (Cn
10:14) Y như rằng!
Chó đen giữ mực. Kẻ ngu
si không kìm được giận dữ và để lộ điều dại dột. (Cn 12:16; Cn 13:16) Anh ta thấy
khó hiểu, vừa gãi đầu vừa nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi
đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa
không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của
Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho
người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông
ta đã chẳng làm được gì.” (Ga 9:30-33) Cái “nếu” của anh mù đưa ra thật độc
đáo. Thế nhưng họ vẫn cố chấp và đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội
lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34) Và rồi họ liền
trục xuất anh. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi. Không còn sĩ
diện, “ngu si mà cứ tưởng mình ngay chính.” (Cn 12:15)
Chuyện anh ta bị trục xuất,
Chúa Giêsu cũng biết, nên khi gặp lại anh, Ngài hỏi anh có tin vào Con Người
không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Ngài trả lời: “Anh đã thấy Người.
Chính Người đang nói với anh đây.” (Ga 9:37) Vô cùng bất ngờ nhưng anh lại thấy
vui mừng và nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin.” (Ga 9:38) Nói xong, anh sấp mình xuống
trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thong thường
thì đa số hơn thiểu số, mặc dù nhiều người ghét Chúa Giêsu mà anh vẫn có lập
trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy.”
Anh này thật diễm phúc – nhờ có đức tin mạnh mẽ.
Chúa Giêsu biết anh ta thật
lòng nên cho biết: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không
xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39) Những người
Pharisêu đang ở đó và nghe vậy liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù
hay sao?” Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ nhen” như thế thì chả bao giờ khá
lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy
Chúa Giêsu cũng phải lắc đầu, rồi Ngài thản nhiên bảo họ: “Nếu các ông đui mù
thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’
nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9:41) Kẻ chảnh thì thường ngu đột xuất, bây giờ lại
tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế luôn. Chán ngán quá!
Thế nhưng có lẽ chúng ta
cũng đã có những lần giống như nhóm Pharisêu, chẳng “thoáng” hơn họ bao nhiêu.
Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời “thuận
ngôn,” không chịu “cân nhắc” lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn
rõ vấn đề, thế nên lời nguyền rủa “có mắt như mù” cũng chẳng hề oan ức. Thế thì
đáng lo sợ lắm!
Chắc chắn rằng mù lòa thì
khổ lắm, khổ đủ thứ. Chỉ mờ mắt một chút đã thấy khổ rồi, càng khổ hơn nếu cận
thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo khi “cửa sổ tâm hồn”
không bình thường. Thánh Vịnh gia nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là
số phận bọn ác nhân.” (Tv 91:8) Do đó, luôn phải biết cầu nguyện: “Xin mở mắt
cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.” (Tv 119:18)
Thời gian trôi qua mau
chóng. Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết đã qua nửa Hành Trình Mùa
Chay. Mỗi chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm chút nào? Có chữ bớt cận thị,
viễn thị hoặc loạn thị chưa? Cận thị vì ảo tưởng mà mạo nhận là mình đạo đức tốt
lành, viễn thị vì không thấy “giỏ tội” của mình ngay trước mặt, và loạn thị vì
không lo đấm ngực mình mà cứ lo đấm ngực người khác. Mùa Chay không còn dài thời
gian, chúng ta cùng tạ ơn Chúa và tiếp tục xin Ngài dìu dắt chúng ta đi hết chặng
đường Mùa Chay đúng ý Chúa muốn.
Lạy Thiên Chúa, xin đừng
trách mắng con khi thịnh nộ, đừng sửa trị con lúc nổi lôi đình. (Tv 38:2) Xin
giúp con biết yêu thương chân thành, nhận ra Ngài nơi tha nhân – những người được
tạo nên giống hình ảnh Ngài, đặc biệt là những người đau khổ, nghèo khó, hèn mọn.
Xin cho người khác cũng nhận thấy có Ngài thực sự sống động nơi con. Xin nâng đỡ
những người khiếm thị và những người chăm sóc họ. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử
Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét