TÂM LÝ THA THỨ TRÊN HÀNH TRÌNH TÌM HẠNH PHÚC
Trần
Mỹ Duyệt
Truyện
kể một lữ hành mồ hôi nhễ nhãi vác trên vai một cái bao đựng đầy sỏi đá. Bước
đi của người này như bị ghì lại bởi sức nặng của thời gian và sức nặng trong
chiếc bao. Có người nhìn thấy đã khuyên anh ta bỏ đi những viên sỏi đá đó,
nhưng anh không nghe. Sau cùng vì thấy không thể tiếp tục đi được nữa, nên anh
đành lòng ngồi xuống bên vệ đường, mở chiếc bao, lựa tìm những viên nhỏ nhất bỏ
đi. Như một phép mầu, anh thấy nhẹ nhõm và bước đi những bước mạnh mẽ hơn. Điều
này khiến anh tự suy nghĩ, tại sao không bỏ hết mà còn giữ lại làm gì những sỏi
đá trong bao. Nhưng có một thôi thúc nào đó từ bên trong nên anh vẫn không muốn
bỏ hết. Chấp nhận bước đi những bước nặng nề, vất vả nhưng không đành buông bỏ.
Cho đến cuối cùng vì quá mệt mã, anh quyết định ngồi lại vứt bỏ tất cả những sỏi
đá còn lại. Và cũng từ đó, anh bước đi những bước nhẹ nhàng, vui vẻ, hạnh phúc
hơn. Anh còn có thời giờ thưởng thức những cảnh đẹp bên đường cho đến khi về tới
đích.
Người lữ hành đó có thể là tôi, là bạn, là chúng ta. Cái bao sỏi đá đó là những hận thù, tranh chấp, giận hờn, ghen ghét, thù oán, và những xúc phạm đến thể xác, tinh thần mà người khác đã làm cho nhau, hoặc do chính chúng ta đã làm, đã gây ra cho người khác. Những thứ đó đã tạo nên một khối nặng đè trên lương tâm cũng như cuộc sống của con người. Trên lý thuyết, ai cũng nhận ra và cũng biết điều này, nhưng do cái tôi của mình nên đành chấp nhận bước đi với những nặng nề đó hơn là buông bỏ, tha thứ để nhẹ nhàng trên hành trình cuộc sống.
Kinh nghiệm đời thường
Trong
thực tế, bạn đã vô tình hay cố ý làm buồn lòng một người nào bao giờ chưa? Nếu
có, bạn cảm thấy thế nào khi nhận được sự cảm thông và tha thứ từ người mà mình
đã gây đau khổ cho họ?
Hoặc
bạn đã bị người nào đó vô tình hay hữu ý làm bạn phải đau khổ, nhục nhã, thiệt
thòi cả thể xác lẫn tinh thần bao giờ chưa? Nếu có, bạn cảm thấy thế nào khi
chính bạn nói lời tha thứ, hòa giải?
Cả
hai trường hợp trên, người nhận sự tha thứ và người nói lời tha thứ đều có cùng
một cảm giác, đó là niềm vui, bình an và sự nhẹ nhàng của tâm hồn. Cảm thấy thoải
mái và thấy được vẻ đẹp cũng như giá trị cuộc đời. Đời sống có ý nghĩa hơn,
đáng yêu hơn, và đáng sống hơn. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, người nói lời tha
thứ sẽ cảm nghiệm được phần thưởng tinh thần nhiều hơn, sâu thẳm hơn, vì: “Cho
thì đáng quí hơn nhận”. Giá trị và kết quả của hành động tha thứ cũng theo chiều
hướng tâm lý này.
Khi
bị xúc phạm, bị coi thường, phản ứng đòi lại công bằng, lấy lại danh dự là điều
ai cũng nghĩ và hành động như vậy. Nhưng điều này thường dẫn đến hậu quả tiêu cực.
Chúng ta sẽ khó lòng nhận lại những gì mình đã mất, nhất là những thiệt thòi
tinh thần, vì người đã xúc phạm đến chúng ta không dễ dàng nhận họ có lỗi và cần
phải xin lỗi. Để nói lời xin lỗi, người đó phải chấp nhận mình có lỗi, cần được
tha thứ. Điều này rất khó xảy ra. Cũng vậy, để nói lời tha thứ, chúng ta phải sẵn
sàng chấp nhận mình bị thua thiệt để tìm kiếm sự bình an, tình thương, và lòng
nhân ái.
Tóm
lại, cả người tha và kẻ được tha đều cần có yếu tố tự hạ. Từ ngữ tâm linh gọi
là khiêm tốn, khiêm nhường, và từ ngữ tâm lý gọi là thật với mình. Thiếu nó,
người tha thứ không dễ chấp nhận tổn thương và thiệt thòi về phía mình để sẵn
sàng tha thứ. Người được tha thứ cũng không dễ dàng nhận mình có lỗi để nói lời
xin lỗi và chấp nhận tha thứ.
Hình
ảnh người bộ hành chấp nhận vác trên vai bao sỏi đá nặng, chấp nhận bước đi những
bước nặng nề, vất vả nhưng không đành buông bỏ đã diễn tả phần nào về cái tôi của
mỗi người.
Cái
tôi tự ty mặc cảm khiến nhiều người luôn luôn buồn giận, phiền trách chính
mình. Từ đó nảy sinh nghi ngờ, ghen tương, so sánh, tị hiềm và ác cảm với người
khác. Ngược lại, cái tôi tự tôn, tự đại luôn thổi phồng, đánh bóng và cho phép
một số khác tự cho mình quyền trên và thống trị kẻ khác. Điều này dẫn đến những
cái nhìn khinh bỉ, coi thường, chà đạp, hạ nhục giá trị và phẩm giá của người
khác.
Cái
tôi với những động lực tiêu cực xét từ hai mặt như trên sẽ không cho phép một
người nhận mình thua kém. Danh dự đâu, mặt mũi đâu, tư cách đâu? Làm sao có thể
tự hạ xin lỗi một cách dễ dàng như thế được. Như một kết quả tất yếu, nó không
cho phép chúng ta nói lời xin lỗi, hoặc chấp nhận sự tha thứ ngay cả khi biết rằng
mình yếu kém hoặc có lỗi.
Về
phía người đúng, người bị kẻ khác xúc phạm thì sao? Làm gì có sự tha thứ dễ
dàng. Công bằng ở đâu? Tha như vậy còn ai sợ mình nữa, còn ai kính trọng mình nữa?
Làm vậy sẽ mất hết tiếng tăm, mất hết phẩm giá, mất hết uy tín. “Quân tử trả
thù mười năm chưa muộn!” Một quan niệm bệnh hoạn về công bằng xã hội! Và như người lữ hành với bao sỏi đá trên vai,
nhiều người sẵn sàng “chấp nhận bước đi những bước nặng nề, vất vả nhưng không
đành buông bỏ…” vì cái tôi.
Thêm vào đó, một trong những kinh nghiệm thực tế về việc tha thứ, đó là tâm lý “Tha và quên” (Forgive and forget). Tâm lý này cũng là một cản trở lớn trong hành động tha thứ. Thực tế có nhiều điều người ta có thể tha, có thể bỏ qua một cách dễ dàng nhưng quên nó thì đòi hỏi phải có nhiều thời gian. Tha đấy nhưng vẫn không quên. Bỏ qua đấy mà lâu lâu vẫn nhớ. Nhưng tha mà không quên được những điều người khác đã xúc phạm, đã làm thiệt hại, đã gây ra đau khổ cho mình thì cũng như không tha, hoặc tha nửa vời! Người được tha có thể quên mình đã làm phiền ai đó, nhưng người tha mà không quên thì cái lỗi của người đã xúc phạm đến mình vẫn luôn ở trước mặt. Và như vậy, nỗi đau, nỗi buồn, sự giận hờn cứ như phảng phất đâu đó khiến họ không thể thực hiện được tác động tha đúng nghĩa. Tóm lại, tha mà không quên cũng là một khối đá nặng trong túi sỏi đá mà người không tha luôn mang trên vai, trong khi vẫn phải bước đi những bước mệt mỏi và chậm chạp.
Tâm lý tha thứ
Đối
diện với cái tôi của mình là yếu tố cần thiết cho hành động tha thứ và đón nhận
thứ tha.
Trong
thực hành, khi lục lọi ký ức tìm tòi những lý luận vững chắc, những chứng cớ để
đòi lại công bằng, có bao giờ chúng ta suy niệm đến việc cầu xin Thượng Đế, Đấng
Tối Cao để được Ngài thương và tha thứ chưa? Điều này nhắc nhở chúng ta về thực
tế con người của mình: Từ hư vô trở thành hiện hữu, từ tinh thần đến thể chất,
từ thân xác đến tâm hồn… Tất cả những gì mình đã có, đang có và sẽ có đều phát
xuất do tình thương của Thượng Đế. Món nợ với Ngài quả là to tát, đó là chưa kể
tới những đam mê, yếu đuối, khuyết điểm, và tội lỗi mà chúng ta thường ngày xúc
phạm đến Ngài. Nhưng Ngài vẫn tha tất cả cho chúng ta với chỉ một điều kiện nhỏ
là chúng ta phải tha cho nhau.
Thật
ra, Thượng Đế rất hiểu con người. Ngài biết ta có ưu và khuyết điểm, có tốt và
có xấu, có tư tưởng hướng thiện, làm lành và cũng có những dục vọng lôi kéo làm
ác. Thế nên Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta tâm lý tha thứ, đó là tâm lý yêu
mình: “Không ai ghét mình bao giờ” [1]. Yêu mình là thứ tình yêu thiêng liêng
phát xuất từ tình yêu Tạo Hóa. Ngài là Thượng Đế của tình yêu [2]. Yêu mình
trong trường hợp này không phải là yêu cái tôi của mình, không phải là hành động
xuất phát do tự ái.
Tâm
lý yêu mình dưới cái nhìn tích cực, trưởng thành không cho phép chúng ta tự làm
khổ mình. Mà một trong những nỗi khổ gậm nhấm, nghiền nát tâm can chính là những
mối hận thù, giận hờn, oán ghét không tha thứ. Nó khiến chúng ta cảm thấy như
mang bao đá nặng trên vai, kéo lê những bước nhọc nhằn trên đường. Do đó, tha
thứ cho một ai đó, trước hết là chúng ta tự giải thoát cho chính mình, bỏ đi những
khối đá đang đè nặng trên vai mình, tạo cho mình những bước chân nhẹ nhàng, thảnh
thơi, những cái nhìn, nụ cười hạnh phúc, và những khoảnh khắc bình an.
Sau khi đã học biết yêu và tha cho chính mình, con người sẽ vươn tình yêu đến tha nhân, vì con người có xã hội tính. Nó không chỉ sống cho riêng mình. Hành động của nó, cuộc sống của nó luôn mang ý nghĩa tương quan giữa con người với con người. Thomas Merton (1915-1968), nhà tư tưởng và chiêm niệm đã viết một tác phẩm nổi tiếng trình bày về những sợi giây liên kết này có tên: “Không ai là một hòn đảo” (No man is an island). Theo tác giả, từ khi cất tiếng khóc chào đời cho đến khi xuôi tay nhắm mắt, tất cả chúng ta đều chịu ơn, đều mang ơn lẫn nhau. Do đó, Không ai có thể nói rằng mình không cần ai, không phiền ai, cũng như không muốn bị ai làm phiền. Vì thế, con người cần phải học biết đón nhận, học biết tha thứ để sống hòa bình với nhau, sau khi đã học biết yêu và tha cho chính mình.
Tha thứ và được thứ tha
“Chính
khi thứ tha là khi được tha thứ” [3]. Triết lý sống này vẫn còn nguyên giá trị
cho bạn và cho tôi hôm nay. Đi giữa cuộc đời trên đôi vai nặng trữu những phiền
muộn, giận hờn, ghét bỏ, thù oán, tranh chấp là bước đi với khối đá trai vai.
Chỉ khi nào bỏ nó đi thì chúng ta mới có thể bước những bước nhẹ nhàng, thanh
thản, bình an và hạnh phúc. Cuộc đời mới thật sự ý nghĩa, đáng sống, và cuộc sống
mới có giá trị.
Trần
Mỹ Duyệt
1.
Êphêsô 5:29.
2.
1 Gioan 4:8.
3.
St. Phanxicô Assisi (1181/1182-1226).
Tác
giả: Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét